1. Chu kỳ 1 - Đinh Mùi – Thuần Đoài, hào 6
- “Thượng Lục, dẫn đoài.”
- “Sáu Trên, dụ dỗ người ta cùng vui.”
- Tượng “Thượng lục dẫn đoài, vị quang dã” – ý tượng nói hào Sáu Trên đạo vui vẻ chưa thể sáng lớn.
2. Chu kỳ 2 - Đinh Mùi - Trạch Thủy Khốn, hào 6
- “Thượng Lục, khốn vu cát lũy, vu niết ngột ; viết động hối hữu hối, chinh cát.”
- “Sáu Trên, bị khốn trong đám sắn dây chằng chịt, lại bị khốn ở nơi lung lay nghiêng ngả, nên suy nghĩ một chút ; đã động rồi sau hối thì sẽ biết hối ngay, như vậy nếu đi lên tất được tốt lành."
- Tượng “Khốn vu cát lũy, vị đáng dã ; ‘động hối hữu hối’, cát hành dã” - "Khốn trong đám sắn dây", nói lên địa vị của Sáu Trên chưa từng ổn đáng. "Làm rồi sau mới hối", nói lên cứ làm ngay đi thì có thể giải trừ khốn mà được tốt lành.
3. Chu kỳ 3 - Đinh Mùi – Trạch Địa Tụy, hào 6
- “Thượng Lục, tê tư thế di, vô cữu.”
- “Sáu Trên, ta thán buồn than, lại đau đớn khóc lóc nước mắt nước mũi dàn dụa, có thể tránh được cữu hại.”
- Tượng “Tê tư thế di, vị an thượng dã” - "Buồn than, lại đau đớn khóc lóc", nói lên hào Sáu Trên mong “tụ” không được, chưa thể ở yên tại ngôi trên cùng.
4. Chu kỳ 4 - Đinh Mùi – Trạch Sơn Hàm, hào 6
- “Thượng Lục, hàm kỳ phụ giáp thiệt.”
- “Sáu Trên, cảm bằng lời nói.”
- Tượng viết: “Hàm kỳ phụ giáp thiệt, đằng khẩu thuyết dã” – “Cảm bằng lời nói”, ý nói lên hào Sáu Trên chẳng qua được tâng bốc lên bởi những lời rỗng tuếch mà thôi.
5. Chu kỳ 5 - Đinh Mùi - Thủy Sơn Kiển, hào 6
- “Thượng Lục, vãng kiển, lai thạc ; cát, lợi hiện đại nhân.”
- “Sáu Trên, đi lên thì gian nan, quay lại có thể lập công lớn ; tốt lành, lợi về sự xuất hiện đại nhân.”
- Tượng “Vãng kiển lai thạc, chí tại nội dã ; lợi hiện đại nhân, dĩ tòng quý dã.” – "Đi lên thì gian nan", nói lên chí hướng của Sáu Trên là liên hợp bên trong cùng nhau vượt gian nan ; "Lợi về sự xuất hiện đại nhân", nói lên Sáu Trên nên theo giúp bậc quân chủ dương cứng tôn quý.
6. Chu kỳ 6 - Đinh Mùi - Địa Sơn Khiêm, hào 6
- “Thượng Lục, minh khiêm, lợi dụng hành sư, chinh ấp quốc.”
- “Sáu Trên, tiếng tăm lừng lẫy về đức “khiêm”, có thể lợi dụng điều đó mà đem quân đi đánh, chinh phạt các nước nhỏ ở gần.”
- Tượng “Minh khiêm, chí vị đắc dã ; khả dụng hành sư, chinh ấp quốc dã.” – "Danh tiếng lừng lẫy về đức khiêm", là nói chí Sáu Trên chưa hoàn toàn thực hiện được ; "Có thể đem quân đi đánh", là nói chỉ đi đánh các đô ấp gần xung quanh.
7. Chu kỳ 7 - Đinh Mùi – Lôi Sơn Tiểu quá, hào 6
- “Thượng Lục, phất ngộ quá chi ; phi điểu li chi, hung, thị vị tai sảnh.”
- “Sáu Trên, không thể gặp được dương cứng mà lại càng vượt quá dương cứng ; chính là giôpngs như con chim bay (bay không ngừng) bị tên bắn hạ giết, có hung hiểm, như vậy gọi là tai ương họa hoạn.”
- Tượng “Phất ngộ quá chi, dĩ khang dã.” – "Không thể gặp được dương cứng mà lại càng vượt quá dương cứng", nói lên tượng hào Sáu Trên ở nơi cao cùng cực. Lúc này là lúc quá cực, không thể tự giữ mà cứ theo như tập quán thói quen, cho nên đến nỗi vậy. Hung là do mình làm, “tai vạ” là do từ ngoài tới.
8. Chu kỳ 8 - Đinh Mùi – Lôi Trạch Quy muội, hào 6
- “Thượng Lục, nữ thừa khuông, vô thực ; sỹ khuê dương, vô huyết, vô du lợi.”
- “Sáu Trên, người con gái tay xách giỏ tre, không có gì ở trong ; người con trai cầm dao giết dê, không thấy máu: (vợ chồng làm lễ không thành), không có gì lợi.”
- Tượng “Thượng Lục vô thực, thừa hư khuông dã” – Sáu Trên giữa rỗng, không đặc, như tay xách chiếc giỏ tre rỗng không. Ngôi cùng cực, như em gái ở ngôi quá cao, không kẻ nào đi theo được, ý “vật cực tắc phản” để răn quy muội. Trước “nữ” sau “sỹ”, lỗi là ở vợ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét