Lý trí và ý chí sinh ra không phải từ trên trời

Nhận thức chỉ là một quá trình tìm kiếm và phát triển tri thức, trước hết là do thực tiễn chế định, là quá trình thường xuyên đào sâu, mở rộng và hoàn thiện tri thức. Đây là sự tương tác giữa khách thể và chủ thể, mà kết quả đó là tri thức mới. Tri thức như một thực tại khách quan, được đem lại trong ý thức của con người. Nó phản ánh, tái hiện một cách lý tưởng các mối quan hệ hợp với quy luật khách quan của thế giới hiện thực trong hoạt động của con người.

Con người là động vật thành công cao nhất, con người cũng không phải là kỳ công sáng tạo cao quý của Chúa có một định mệnh thần thánh, mà con người chỉ là một thử nghiệm của thiên nhiên với một số phận vô định. Người ta không thể đi lùi bước. Ý thức, một thời được coi là cai quản vũ trụ và thấm nhuần trong đó, nay được hiểu chỉ là xuất hiện ngẫu nhiên trong quá trình tiến hóa của vật chất, chỉ hiện hữu trong khoảng khắc, và có đặc tính chỉ là một phần nhỏ hạn hẹp và tương đối vô nghĩa lý của vũ trụ - Con người tinh khôn - mà số phận tiến hoá tối hậu của nó chẳng được bảo đảm gì khác hơn hàng ngàn giống loài khác nay đã tuyệt chủng.

Một thế giới không còn là sự sáng tạo thần thánh nữa, nó đã mất đi một số tính chất tinh thần cao quý, một sự tước đoạt làm con người mủi lòng về cái triều thiên xưa kia của nó. Trong khi thần học Kitô cho rằng, lịch sử tự nhiên tồn tại vì lợi ích của lịch sử nhân loại, và con người sống thoải mái như được ở nhà, trong một vũ trụ dành riêng cho nó, để phát triển trí tuệ. Nhưng tri thức mới về tiến hóa, đã phủ nhận cả hai điều nói trên và coi chúng là ảo tưởng khi lấy con người làm trung tâm

Con người không là một tuyệt đối, những giá trị con người ấp ủ không có cơ sở ở ngoài bản thân nó. Tính tình con người, cả lý trí và ý chí sinh ra từ dưới trần thế này, không phải từ trên trời. Các cơ cấu, chẳng những về tôn giáo, mà về cả xã hội, văn hóa, về cả những lý trí, giờ đây dường như chỉ là những biểu hiện tương đối độc đoán của cuộc đấu tranh sinh tồn sinh học. Giờ đây, con người nhận ra mình đang cưỡi trên sự tiến bộ của đỉnh cao tiến hóa, một thành tích sáng ngời và phức tạp của tự nhiên, nhưng con người cũng vẫn chỉ là một động vật không có chủ đích gì "cao hơn".

Vũ trụ không bảo đảm gì cho sự thành công vốn bất định của các giống loài, nhưng lại bảo đảm một cách chắc chắn sự mai một của từng cá thể khi thân xác chết đi. Trên bình diện vĩ mô và lâu dài hơn, ý thức hiện đại ngày càng tăng về tính ngẫu nhiên của cuộc sống, càng được tăng cường bằng định luật thứ hai của nhiệt động học ở thế kỷ XIX, theo đó vũ trụ chuyển động bộc phát và không thể đổi ngược được từ trật tự sang mất trật tự, về hướng tình trạng cuối cùng của entropy tối đa hay "chết nhiệt". Những dữ liệu chính trong lịch sử loài người, cũng ngẫu nhiên ủng hộ những hoàn cảnh sinh lý và đấu tranh tàn bạo để sống còn, mà rồi cũng chẳng có ý nghĩa gì và rõ ràng hơn.

Freud cũng đã đẩy mạnh những phát triển này, bằng cách áp dụng quan điểm Darwin áp dụng đầy đủ vào tâm thần con người, trình bày bằng chứng rất thuyết phục về sự hiện hữu của những lực vô thức, quyết định những hành vi cử chỉ và tri thức có ý thức. Và như vậy, tâm trí người hiện đại được giải phóng khỏi cái vô thức ngây thơ, có nghĩa rằng giải phóng khỏi cái vô thức về tình trạng vô thức của nó, giúp cho nó hiểu biết chính nó về chiều sâu, nhưng đồng thời cũng bắt nó phải đối diện với hình ảnh đen tối, chẳng lấy gì đáng tự hào về đặc tính thật sự của nó, khi mà khoa phân tâm học hình thành.

Khoa phân tâm học có ích dụng hiển linh với đầu óc con người của thế kỷ XX, vì nó đem lên ánh sáng những độ sâu của tâm linh, phát hiện những giấc mơ, những hành vi và tư tưởng ngông cuồng, các triệu chứng tâm thần có thể hiểu được, soi sáng bệnh học về tình dục của những người bệnh hoạn thần kinh, chứng minh sự quan trọng của những kinh nghiệm thời thơ ấu đối với đời sống trưởng thành có điều kiện, phát hiện mặc cảm ơ-dip (Oedipus), chỉ rõ sự tương quan tâm lý của thần thoại và thuyết biểu tượng, nhận ra các thành phần cấu trúc tâm linh gồm "ngã", "siêu ngã" và cái "ấy" (ego, superego, id), phát hiện cơ chế phản kháng, cơ chế dồn nén, phóng chiếu, và chỉ rõ hàng loạt những tri thức thấu đáo, dàn trải ra đặc tính của trí óc và các động lực nội tâm.

Sự vô thức của con người được đưa ra ánh sáng của lý trí tìm tòi.

Tại sao ý thức có liên hệ mật thiết với ngôn ngữ ?

Ngôn ngữ là hệ thống ký hiệu, mà nhờ đó con người giao tiếp với nhau, tiến hành nhận thức thế giới và tự nhận thức, bảo quản và truyền đạt thông tin, điều khiển hành vi của nhau.
Trong ngôn ngữ, có thể tách biệt hệ thống ký hiệu tự nhiên (ngữ điệu, động tác của cơ thể con người: bộ dạng, cử chỉ, điệu mặt) và hệ thống ký hiệu nhân tạo (ngôn ngữ toán học, ngôn ngữ hội họa, ngôn ngữ âm nhạc, ký hiệu đường sắt, v,v...)
Ngôn ngữ là một thành tố chủ yếu trong hoạt động của xã hội, nó hoàn thành vô số chức năng trong xã hội:
- Danh sách: khả năng của ngôn ngữ biểu thị, biểu tượng thế giới các sự vật và các quá trình
- Nhận thức; tham gia vào quá trình nhận thức
- Giao tiếp: tham gia vào quá trình giao tiếp của con người, v,v...

Ý thức và ngôn ngữ có liên hệ mật thiết với nhau. Chỉ cần chỉ ra một thực tế là, đứa trẻ thông báo cho những người xung quanh biết rằng, nó đã đạt tới trình độ cái "Tôi" có tự ý thức nhờ danh từ "cái Tôi", là cũng đủ. Mối liên hệ của ý thức và ngôn ngữ còn thể hiện ở chỗ, sự xuất hiện của ý thức cá nhân, chỉ là có thể, nếu con người tham gia vào thế giới ngôn ngữ và trước hết là ngôn ngữ nói. Chính trong sự giao tiếp bằng ngôn ngữ nói với người lớn, đứa trẻ bắt đầu nói về cái "Tôi" của mình, tự phát nắm bắt logic tư duy được mã hóa trong các câu nói. Tiếng mẹ đẻ hình thành một cách tự phát ở con người, sự cảm nhận nhịp điệu, âm điệu, cũng như nhiều đặc điểm khác về tâm hồn và trí tuệ của nó. Nếu tính rằng, sự hình thành ý thức của cá nhân bắt đầu từ thời thơ ấu, thì chúng ta sẽ hiểu vai trò to lớn của không gian ngôn ngữ mà đứa trẻ sống ở trong đó.

Để ý thức con người trở thành cái tồn tại đối với người khác, để họ hiểu biết về nội dung của nó, thì cần phải biểu thị nó ra bên ngoài, tức là khách quan hóa nó, ngờ ngôn ngữ, không nhất thiết phải là ngôn ngữ nói. Thí dụ: có thể truyền đạt cảm giác vui mừng, thán phục, đau khổ, v.v ... bằng sự biểu thị đặc biệt của bộ mặt, mắt, bằng ngôn ngữ âm nhạc, nhảy múa.

Nội dung của ý thức và nói chung là của thế giới tinh thần của con người càng phong phú hơn bao nhiêu, thì chính con người càng cần ký hiệu ngôn ngữ hơn bấy nhiêu, để truyền đạt nó và ngược lại. Thí dụ, trong "Mười hai chiếc ghế" của Alfa và Petror, thì Ellochka chỉ cần 12 từ để biểu thị thái độ của cá nhân mình đối với bất kỳ hiện tượng và hành vi nào. "Hiệu ứng Ellochka" có mặt cả khi chiếm ưu thế trong ngôn ngữ của con người, là tiếng lóng đặc trưng cho một nhóm xã hội khép kín nào đó. Có tiếng lóng hoc sinh, tiếng lóng sinh viên, tiếng lóng nghề nghiệp, tiếng lóng hình sự, v.v...

Mỗi nền văn hóa đều xây dựng một tổ hợp từ ngữ xác định của mình, nhờ vào đó mà ý thức của các đại diện của nó , bộc lộ mình ra bên ngoài. Số lượng từ ngữ biểu thị nội dung logic - đối tượng và nội dung cảm tính - tình cảm của ý thức, có tỷ lệ khác nhau trong các ngôn ngữ khác nhau. Ví như, các ngôn ngữ châu Âu chủ yếu là ngôn ngữ "danh cách", có nghĩa là chủ yếu được làm cho thích nghi để gọi tên các đối tượng và thuộc tính của chúng. Người châu Âu dùng ngôn ngữ để ghi nhận sự định hướng của mình vào quan hệ duy ly với thế giới.

Ngôn ngữ cũng theo với dòng lịch sử, những chuyển biến lớn đang diễn ra. Nhiều từ thông dụng, như "tình yêu", "lương tâm", "chính nghĩa", v.v... bị loại bỏ và thay thế bằng các từ khác "tình dục", "nghiệt ngã", "thành đạt", v.v... Những thay đổi này có báo hiệu điều gì chăng ??? Sự biến đổi ngôn ngữ là quá trình song phương: một mặt nó phản ánh những chuyển biến diễn ra trong ý thức con người, mặt khác - nó góp phần tiếp tục cải biến ý thức.

Vậy thì, làm thế nào để giữ lại được, một trong những điều kiện quan trọng nhất cho sự đồng nhất văn hóa của mình ? Vì rằng, chỉ có loài người, mới có khả năng tạo ra hệ thống ngôn ngữ ký hiệu nhân tạo, đó là ngôn ngữ hội họa, ngôn ngữ âm nhạc, ngôn ngữ toán học, v.v...

Tứ Thư - Mạnh Tử



MẠNH TỬ

Sách Tam tự kinh, câu mở đầu dẫn "Nhân tri sơ, tính bản thiện", có nghĩa là con người ta sinh ra vốn thiện. Đây chính là tư tưởng của Mạnh Tử về bản tính thiện của con người.

Khổng Tử thì chú trọng dạy về cách làm người. Mạnh Tử lại chú trọng truy tìm bản thể phía sau hiện tượng xã hội và tự nhiên, lấy việc hoàn thiện tu dưỡng đạo đức làm khởi điểm cho việc nhận thức chân lý.

Tư tưởng của Mạnh Tử chiếm địa vị quan trọng trong hệ thống tư tưởng Nho gia, và được coi là người kế thừa và phát triển một cách xuất sắc học thuyết Nho gia do Khổng Tử đề xướng. Đã được những triều đại trong lịch sử phát triển trước đây hết sức tôn trọng, được coi là đạo lý kinh điển trong việc trị quốc an dân. Trong bộ sách Tứ Thư, có thể coi sách Mạnh Tử là kiến giải, chú giải thêm cho sách Luận Ngữ, cho nên sách Mạnh Tử chiếm nội dung rất quan trọng trong cả bộ sách Tứ Thư.

Bàn về bản tính con người, Mạnh Tử đã tổng kết hàng loạt khái niệm trước đó đã đi sâu về "tâm", giảng giải rõ sự khác nhau giữa "tâm" với những khí quan khác trong cơ thể con người như tai, mắt, ... Mệnh đề "tâm để tư duy", được coi là phương tiện truyền tải chính, nhằm thực hiện việc tự mình, làm thức tỉnh và hoàn thiện con người mình. Từ đây, định lệ xây dựng nên những khái niệm về lòng thương xót, xấu hổ, căm ghét, ...

Mạnh Tử đặt vấn đề về yếu tố "dân bản", nhấn mạnh mối quan hệ hai chiều giữa Vua và dân. Ông khẳng định quan niệm về "vương đạo nhân chính", thì phải biết rằng "Dân quý nhất, thứ đến xã tắc, rồi mới đến vua", và Mạnh Tử cho rằng nhà vua nên cùng chúng dân chung hưởng lạc thú, tạo điều kiện cho dân làm ăn sinh sống. Tuy nhiên, yếu tố dân bản này, được hình thành trên cơ sở bảo vệ quyền lợi của nhà cầm quyền.

Mạnh Tử bàn sâu về Nhân - Nghĩa, coi "nhân" là nơi ở rộng rãi nhất, còn đối với khái niệm "nghĩa", đó là con đường rộng lớn nhất. Sống phải có nơi ở, đi lại phải có đường, từ đây mà Mạnh Tử xây dựng gắn kết mối quan hệ "nhân - nghĩa" với con người, quy định cái đích để con người tu dưỡng và rèn luyện.

Với lời văn ngôn ngữ giầu hình tượng, hấp dẫn mà đại chúng, Mạnh Tử khéo lý giải những vấn đề phức tạp bằng những ví dụ thật dễ hiểu, đậm chất hùng biện.


Con người hoàn toàn có khả năng dự đoán tương lai

Một nghiên cứu mới nhất của các nhà khoa học Mỹ cho thấy khả năng dự đoán tương lai của con người là có thật.
Theo các nhà khoa học thuật siêu linh không chỉ là "trò chơi" của các ông thầy bói. Rất nhiều người trong số chúng ta cũng có khả năng siêu linh như vậy, tức là có thể "dự đoán tương lai."

Để chứng minh cho kết luận của mình các nhà khoa học đã tiến hành hai thí nghiệm.

Thí nghiệm thứ nhất, các nhà khoa học yêu cầu các đối tượng ghi chép từ mới. Sau đó tiếp tục yêu cầu các đối tượng thí nghiệm bằng mọi cách có thể để hồi tưởng lại càng nhiều từ mới càng tốt.
Tiếp theo các nhà khoa học lựa chọn ngẫu nhiên một nhóm từ trong số những từ các đối tượng được yêu cầu ghi nhớ và in nhóm từ này ra. Kết quả cho thấy một số đối tượng rất dễ dàng ghi nhớ nhóm từ, trong khi đó một số đối tượng khác lại rất khó ghi nhớ.
Tuy nhiên, điều gây ngạc nhiên là những từ các đối tượng thí nghiệm ghi nhớ đều là những từ nằm trong số các từ đã được in ra. Điều này cho thấy sự kiện xảy ra trong tương lai (tức là các từ được in ra) đã ảnh hưởng đến khả năng ghi nhớ của các đối tượng thí nghiệm. Bởi các đối tượng thí nghiệm không biết được số lượng các từ đã được các nhà khoa học in ra.

Thí nghiệm thứ hai, các nhà khoa học cho học sinh xem một bức ảnh trên màn hình máy tính. Trong bức ảnh có hai rèm cửa, một trong số hai rèm cửa có cất giấu một bức ảnh khiêu dâm. Kết quả thí nghiệm cho thấy có nhiều đối tượng lựa chọn rèm cửa có chứa ảnh khiêu dâm. Đây không thể giải thích một cách đơn giản là do sự "ngẫu nhiên."
Bởi bức ảnh khiêu dâm xuất hiện ở rèm cửa nào hoàn toàn là do sự sắp xếp ngẫu nhiên của máy tính, hơn nữa sự lựa chọn này xuất hiện sau khi các đối tượng thí nghiệm đã thực hiện sự lựa chọn của mình. Trong số những người tin tưởng vào sức mạnh siêu nhiên, những học sinh này trên thực tế đã ảnh hưởng đến sự kiện phát sinh trong tương lai.
Theo các nhà khoa học, các kết quả thí nghiệm cho thấy chúng ta không thể giải thích một cách đơn giản các hiện tượng trên thuộc về "sự ngẫu nhiên thuần túy." Giới khoa học cần phải giải phóng tư tưởng và có thái độ mở đối với khả năng tồn tại của sức mạnh siêu nhiên./.

http://www.vietnamplus.vn/Home/Con-nguoi-hoan-toan-co-kha-nang-du-doan-tuong-lai/201011/69168.vnplus

Mặt trời sẽ gây ra nhiều hủy hoại lớn vào năm 2013

Dự báo mang tính chuẩn xác mới đây của cơ quan không gian Mỹ (NASA) cho biết, năm 2013 sau nhiều năm ngủ đông, Mặt trời sẽ thức giấc đe dọa xấu cho Trái đất. Sự bùng nổ nhiệt của hành tinh nóng này sẽ đe dọa mạnh tới các vệ tinh của Trái đất, gây ra nhiều tình trạng lộn xộn. Sức khỏe con người và sinh vật vì thế cũng bị ảnh hưởng xấu.

Huỷ hoại thiết bị

Trong một thông báo mới đây, ông Liam Fox- Thư ký của Lầu Năm Góc đã nhấn mạnh, bão từ mạnh từ Mặt trời sẽ gây thảm họa cho các thiết bị công nghệ cao của Trái đất. Những số liệu gần đây cũng cho thấy, nhiệt độ bề mặt của hành tinh nóng này ngày càng gia tăng. Bão từ trường cũng phát ra các bức xạ gây ảnh hưởng xấu tới từ tính của Trái đất. Điều này sẽ làm giảm sự hoạt động của các đoàn tàu cao tốc hay máy bay chạy bằng từ, hệ thống định vị toàn cầu cũng bị ảnh hưởng. Hệ thống sóng radio, điện thoại di động cũng hoạt động gián đoạn do sóng truyền không được liên tục. Ông Liam Fox cũng nhấn mạnh, xã hội hiện nay quá phụ thuộc vào công nghệ, khi có tình huống xấu xảy ra sẽ gây ra nhiều tổn thương. Các nhà bảo tồn thiên nhiên của Trái đất cũng không thể chống chọi với sự nổi loạn của Mặt trời. Điều này cũng nguy hại tới các hệ thống máy tính hoạt động nhờ hệ ánh sáng Mặt trời. Sự cung cấp không liên tục của nguồn năng lượng mặt trời sẽ kéo dài nhiều giờ hoặc nhiều tháng, tuy nhiên, hậu quả sẽ được hạ xuống mức thấp nhất nếu chúng ta có sự chuẩn bị kỹ.

Đe dọa con người

Mặt trời bốc cháy lớn được biết tới là sản sinh ra những cơn bão từ cho Trái đất. Trong những ngày này, các ngành y tế cần có những quan tâm kịp thời cho mọi người để kịp phòng tránh các vấn đề về sức khỏe và stress. Nó cũng ảnh hưởng mạnh tới cảm xúc và xúc cảm. Điều này tăng nguy hiểm cho các mao mạch máu, các cuộc nghiên cứu cho thấy, bão từ làm tăng nguy cơ mắc các bệnh tim mạch là 13% . Bão từ cũng quấy rối tầng điện ly, làm gián đoạn các sóng radio. Hệ thống Mặt trời đốt cháy thường xuyên, nó cùng với bước sóng điện từ có thể gây hại cho Trái đất mà nhiều khi không khắc phục được. Năm 2002, các nhà khoa học NASA cũng dự báo chính xác sự bốc cháy lớn của hệ Mặt trời, khiến hệ thống Mặt trời phồng to thêm hơn 20 lần đường kính Trái đất. Các nhà khoa học trấn an rằng, năng lượng nóng khủng khiếp này không đi thẳng tới Trái đất, nếu không những thiệt hại khổng lồ sẽ xảy ra.

http://www.doisongphapluat.com.vn/Story.aspx?lang=vn&zoneparent=0&zone=47&ID=7180


Tứ Thư - Luận Ngữ - Chương 8 - Tiết 4

      Tăng Tử ốm nặng sắp chết, Mạnh Kính Tử đến thăm. Tăng Tử nói với Mạnh Kính Tử rằng:

      "Con chim sắp chết, tiếng kêu đau thương ; con người sắp chết, lời nói rất thực".

      Tiếp đó, Tăng Tử dặn dò: " Người quân tử giữ đạo lý, nên đặc biệt coi trọng ba điều:

      - Cử chỉ, dung mạo điềm đạm, dáng điệu khoan thai đàng hoàng, sẽ giữ cho bản thân mình tránh được thô bạo và phóng túng.
      - Giữ sắc mặt đoan trang sẽ giúp cho mình giữ được chân thật và thành thực với mọi người.
      - Nói năng chú ý giữ cho được điệu bộ, giọng điệu, sẽ tránh được cho mình sự thô bỉ và sai sót.

      Còn đối với việc lễ tang và lễ nghĩa khác, thì đã có quan sứ chủ quản về mặt này quản lý và chủ trì rồi, mình khỏi phải quan tâm ".


Bình luận



      Tăng Tử nói:

      " Con chim sắp chết tiếng kêu đau thương ; con người sắp chết lời nói rất thực ".

      Một người sắp chết là sắp đi hết lịch trình của cuộc đời. Lúc này, mọi hăng hái, khẳng khái không còn nữa ; ghen ghét, đố kỵ cũng tiêu tan ; mọi đấu tranh với người đều dừng lại ; tất cả mọi đau khổ và phiề
n muội đều trở thành quá khứ.

      Ai cũng vậy: cuộc đời ba chìm bảy nổi, bãi bể cồn dâu đã trải, mặn ngọt đắng cay đã từng, lúc gần đất xa trời lại càng thấm sâu hiểu rõ hơn giá trị cuộc đời, cho nên lời nói tất thực.


Ba lời dặn dò của Tăng Tử là tổng kết kinh nghiệm cuộc đời của Tăng Tử. Ở mỗi một con người, ý thức tư tưởng, thế giới tinh thần là một tầng thứ ; dung mạo thể hiện ra ngoài là một tầng thứ khác ; còn khi giao tiếp giao lưu nói chuyện, điệu bộ, động tác biểu hiện lại là một tầng thứ khác nữa.

      Ba tầng thứ này kết hợp và hỗ trợ cho nhau, nói lên sự thống nhất giữa nội tâm và hình thức, giữa trong và ngoài. Tư tưởng được biểu hiện bằng cử chỉ, sắc mặt, lời nói. Cho nên, rèn luyện cử chỉ, sắc mặt và lời nói chính là rèn luện tư tưởng vậy.


Quan sát nét mặt của một người thì có thể biết tư tưởng của người ấy; quan sát hành vi của một người thì có thể biết nội tâm của người đó; Như vậy chẳng đúng sao ?

      Rèn luyện cử chỉ dung mạo điềm đạm, dáng điệu khoan thai, ung dung, từ tốn, đàng hoàng, thì sẽ không làm cho tư tưởng của mình nóng vội, hấp tấp, về hành động cũng không thô bạo, bừa bãi, phóng túng hoặc quá đáng.

      Rèn luyện sắc mặt đoan trang, đoan chính, thì về mặt tư tưởng sẽ không sinh ra quỷ kế hại người, về mặt hành động cũng không để xẩy ra lừa dối người, làm mất chữ tín.

      Rèn luyện kỹ năng nói dùng từ chuẩn xác, giọng điệu ôn hòa, thì trong lòng sẽ không sinh ra oán hận, giận dữ, nhờ vậy mà không để xẩy ra thô bỉ, vô lễ.
 

LUẬN NGỮ - Chương 2 - Tiết 15

Chương 2

VI CHÍNH


Tiết 15: Khổng Tử nói:

" Dám mạnh dạn đấu tranh phê bình chỉ trích tệ hại thói hư tật xấu thì tự nhiên họa hại sẽ tiêu tan ".

Bình luận:

Trong mặt trận tư tưởng văn hóa, việc đấu tranh phê bình và chỉ trích những tư tưởng sai trái, đã xuất hiện từ xa xưa. Không phê phán tư tưởng sai trái, thì tư tưởng đúng đắn không thể đứng vững được. Đây chính là điều mà ngày nay chúng ta thường nói "đấu tranh tư tưởng " vậy.

Trong quá khứ, việc đấu tranh tư tưởng có khi thực hiện quá tả, có lúc đấu tranh phê phán quá mức, khuếch đại quá lớn ; có lúc đem vấn đề tư tưởng thành vấn đề chính trị một mất một còn, đem phong trào phê phán tư tưởng sai trái thành phong trào chỉnh người, trở thành thái quá. Nhưng không vì vậy mà bác bỏ đấu tranh phê phán.

Cần phê phán tư tưởng sai trái ở từng cá nhân, cũng như những tư tưởng hành động sai trái này, đã thâm nhập lan tràn trong xã hội. Tư tưởng đúng đắn phải xây dựng được quyền uy, lý luận đúng đắn phải biến thành hành động tự giác của quần chúng, truyền thống văn hóa đạo đức của xã hội từng bước được hình thành tốt đẹp.

Khi thường xuyên cảnh giác, kịp thời phê phán loại bỏ những tư tưởng sai trái, kịp thời bài trừ khuynh hướng bất lương, thì sự phát triển để ổn định xã hội ngày hôm nay, không làm thương tổn đến khả năng phát triển bền vững của ngày mai.


LUẬN NGỮ - Chương 2 - Tiết 17

Chương 2

VI CHÍNH

Tiết 17: Tử Trương hỏi Khổng Tử cách học để cầu có chức tước bổng lộc. Khổng Tử nói:

" Phải nghe nhiều, có điều gì nghi ngờ thì phải giữ lại, những điểm nào thấy minh bạch chắc chắn thì nói một cách thận trọng, như vậy sẽ giảm được oán trách.

Phải quan sát nhiều, nếu có điều gì nguy hại thì dẹp một bên, đừng làm ; còn những điều gì xét thấy chắc chắn, đảm bảo thì làm một cách thận trọng, như vậy nhất định giảm được nhiều điều hối hận.

Nói ít phạm sai lầm, không có ai oán trách ; làm không để xẩy ra điều gì phải hối hận thì quan tước bổng lộc đã tự có ở trong đó rồi ".

Bình luận:

Khổng Tử giảng phương pháp học tập để làm quan hưởng bộc lộc có bốn điều:

Nghe nhiều: Một người ở quan trường phải giải quyết rất nhiều công việc, điều quan trọng là phải nghe nhiều. Nghe nhiều tiếng nói khác nhau, nghe đủ các loại ý kiến từ mọi phía, cần đặc biệt nghe những ý kiến mà bình thường mình không thể nghe được.

Tai chỉ nghe một phía, trong lòng chỉ có một loại ý kiến, thì không tránh khỏi thiên lệch. Lời nói hay cũng nghe, dở cũng nghe. Lời nói ủng hộ cũng nghe, phản đối cũng nghe. Như vậy, mới có điều kiện đem so sánh đối chiếu, đề xuất được ý kiến, quyết sách đúng đắn, để có thể giải quyết tốt việc công, việc nước.

Điều gì hoài nghi thì phải giữ lại: Khi thi hành phận sự, thường phải giải quyết sự tranh chấp nhân sự, công việc chính trị nhiều, tình hình các ngành nghề phức tạp. Nhưng con người ta không thể cái gì cũng biết, cái gì cũng hay. Khổng Tử đề xướng làm việc gì cũng đều phải luôn tự hỏi: " Vì sao ? Như thế nào ? " ; đối với những vấn đề đã hiểu rõ, có thể đưa ra ý kiến của mình, nhưng khi trình bầy, thái độ khi nói phải hết sức thận trọng ; đối với những vấn đề chưa rõ, chưa hiểu thì phải giữ lại, để tìm hiểu ngọn ngành đầu đôi, tránh phát ngôn tùy tiện bừa bãi.

Đây là thái độ nghiêm túc, thái độ cẩn trọng đối với công việc.

Làm không để xảy ra điều gì phải hối hận: Giải quyết công việc phải có trách nhiệm, đừng để khi làm phạm phải sai lầm, dẫn đến nhiều người oán trách. Quan điểm chủ trương của Khổng Tử khi giải quyết chính sự phải chắc chắn. Mỗi khi định làm việc gì, phải có chủ trương đúng đắn, chuẩn bị cẩn thận, có tinh thần trách nhiệm với kết quả công việc, thì sẽ không để xảy ra điều gì phải hối hận.

Nếu trước khi làm mà thiếu thận trọng, thiếu chuẩn bị chu đáo, giữ thái độ tắc trách đại khái, vội vàng ra mệnh lệnh chỉ thị, thì sẽ hối hận không kịp.

Hối hận nhiều, oán trách nhiều, khuyết điểm sai lầm nhiều, thì nhất định sẽ làm hỏng chính sự.

Phải quan sát để tận mắt học hỏi nhiều điều trong thực tế: Có như vậy, khi giải quyết vấn đề mới thấu tình đạt lý. Trên thuận đạo trời, dưới hợp đạo người, thì nắm chắc sự thành công, lập nên thành tích. Quan tước bổng lộc đều ở trong đó cả.



TỨ THƯ - LUẬN NGỮ



LUẬN NGỮ


Trong kho trí tuệ mà Khổng Tử cống hiến cho nhân loại, phải kể đến Luận Ngữ, với nguyên nghĩa sách Luận Ngữ là bàn về lời nói. Sau khi Khổng Tử mất
, các học trò của ông cùng nhau chép lại và bàn luận lời của Thầy, khi trả lời học trò hỏi đáp lẫn nhau, để hiểu cho đúng, hiểu được rõ lời dạy của Thầy.

Luận Ngữ đi sâu lý giải mọi vấn đề chính trị, xã hội, luân lý, đạo đức, ... một cách sâu rộng và uyên thâm. Nội dung của Luận Ngữ trong mọi phương diện học tập, giáo dục, xử thế và trị nước an dân. Lời văn trong Luận Ngữ trong sáng, cô đọng thành những danh ngôn bất hủ, nên được tiếp thu và có được sự ảnh hưởng lớn rộng rãi, cho tới nay vẫn không mất đi giá trị chân thực.

Khổng Tử cho rằng người ta phải tu thân, tề gia, sau mới nói đến trị quốc bình thiên hạ được.

Trong việc tu thân, tề gia, người ta phải tu dưỡng rèn luyện "nội tâm", để đạt được nguyên tắc đạo đức tối cao, bao gồm những đức như: trung, thứ, hiếu, đễ, cung, khoan, tín, mẫn, huệ. Đây mà nhân cách tiêu chuẩn do Khổng Tử xây dựng nên, một khuôn mẫu cơ bản, được xã hội cổ đại chấp nhận và tồn tại trong suốt chiều dài của lịch sử. Để đạt được theo tiêu chuẩn khuôn mẫu, cũng có nghĩa là đã xác lập được nhân cách tiêu chuẩn là người "quân tử". Khi ấy, con người ta sẽ biết coi trọng luân thường đạo lý, biết sống có trách nhiệm, biết đặt lợi ích cộng đồng lên trên lợi ích cá nhân, tránh xa được chủ nghĩa cá nhân làm sa đọa con người và xã hội.

Trong việc trị quốc, bình thiên hạ, người cầm quyền phải tu thân tề gia, rồi mới thi hành đức trị theo lễ giáo, từ đó mà cảm hóa dân chúng, khiến cho dân chúng phục tùng sự cai trị của mình. Cương lĩnh được chú trọng nhất đó là "lễ", có nghĩa là trật tự trong trị nước. Khổng Tử đã định ra thuyết "chính danh", với yêu cầu: " vua trọn đạo làm vua, tôi trọn đạo làm tôi, cha trọn đạo làm cha, con trọn đạo làm con ", coi chính danh là biện pháp lớn để trị nước. Một tư tưởng lớn khác của Khổng Tử là " không lo của cải ít, chỉ lo phân phối không đều ; không lo dân không đông, mà chỉ lo lòng dân không yên ", để từ đây mà xây dựng nên thế giới "đại đồng".

Gắn kết lời dạy của thánh nhân với cuộc sống hông nay, ta tìm thấy giá trị đích thực đối với bản thân, trong xu thế toàn cầu hóa đang tràn lan. Ta sẽ hiểu thấu đáo hơn nền tảng văn hóa truyền thống của dân tộc, trên cơ sở tiếp thu uyển chuyển, linh hoạt, có chọn lọc những tinh hoa tư tưởng Khổng Mạnh, để rồi từ đó hình thành những định hướng cho chặng đường phát triển tiếp theo.

TỨ THƯ - TRUNG DUNG

TRUNG DUNG

Trong hội nghị của các nhà khoa học được trao giải Nô-ben hòa bình tổ chức tại Pa-ri, mọi người đã tuyên bố: " Nhân loại nếu muốn sinh tồn trong thế kỷ XXI, phải hướng về học thuyết chung sống hài hòa của Khổng Tử - người của hơn hai nghìn năm trăm năm về trước ".

Trong lịch sử văn minh nhân loại, mỗi khái niệm hay một quan niệm được hình thành, mỗi một loại tư tưởng được kiến lập đúc kết nên, mỗi một nền văn hóa được xây dựng hình thành, đều trải qua quá trình tích lũy lịch sử lâu dài.

Những nhà hiền triết cổ đại, những bậc thánh nhân cổ Hy Lạp, Ấn Độ, Trung Quốc, ... đều đề xướng tư tưởng Trung dung. Nguyên nhân sâu xa chính là vì đạo lý Trung Dung đã mang lại cho con người một lý tưởng sống chính đáng, một biện pháp, một cách giải quyết phù hợp thống nhất được hai cực đoan, làm cho cuộc sống giữa con người với con người hài hòa và vui vẻ, nhân loại nhờ đó mà không dẫn đến bị hủy diệt hay tan dã.

Trung Dung là một tư tưởng, giúp cho con người tìm được sự hoàn mỹ, hoàn hảo nhất ; không thiên lệch về bên nào ; hòa khí với mọi người nhưng không a dua hùa theo người ; không kéo bè kéo cánh ; hòa nhưng không đồng hóa ; hội nhập mà không hòa tan ; hòa mình vào quần chúng nhưng không theo đuôi quần chúng. Trung dung không phải là thỏa hiệp, nhượng bộ, bảo thủ, lạc hậu, mà Trung Dung chính là một đức sáng, giúp cho con người tự hoàn thiện bản thân, hướng con người theo xu hướng đạt tới phẩm chất đạo đức cao nhất.

Cho nên, khi nghĩ đến Trung Dung, là phải nghĩ đến một sự sắp xếp tốt nhất trong một điều kiện, một không gian, một thời gian nhất định. Không thể cho rằng, vì bất lực nên phải dựa vào Trung Dung, hay Trung Dung là nhường nhịn "chín bỏ làm mười". Trung dung không những là quy phạm đạo đức, mà còn là phương pháp tư tưởng để quan sát thế giới, xử lý các vấn đề, thậm chí Trung dung trở thành thế giới quan của con người. Đặc biệt là trong Kinh Dịch - Dịch truyện

"Trung ư ! Trung là điều cơ bản lớn nhất trong thiên hạ.
Hòa ư ! Hòa là chuẩn tắc phổ biến nhất trong thiên hạ.
Trung hòa mà đạt đến tột cùng, thì mọi cái trong trời đất đều ở vị chí thỏa đáng, vạn vật sẽ sinh sôi nảy nở ".

Trung Dung đã trở thành phương pháp cơ bản để nhận thức thế giới, đồng thời Trung Dung cũng là chuẩn mực cơ bản để xử thế, thấm sâu vào tâm lý xã hội của con người phương Đông nói chung.

Tư tưởng Trung dung của Khổng Tử bao hàm nhân tố tư tưởng rất phong phú của phép biện chứng, đó là tôn trọng tính quy luật khách quan của mâu thuẫn, coi trọng sự liên kết dựa vào nhau để mà tồn tại của hai mặt đối lập trong cùng sự vật.

Theo Khổng Tử, mâu thuẫn hai bên đến một lúc nào đó sẽ xẩy ra bài xích lẫn nhau, để rồi đạt tới một sự cân bằng của mâu thuẫn, để mâu thuẫn lại được thống nhất. Đặc biệt khi luận chứng về làm thế nào, để đạt được sự cân bằng giữa hai bên, làm thế nào để duy trì sự cân bằng. Khổng Tử đã có những kiến giải rất có giá trị, làm phong phú sâu sắc thêm về những ý nghĩa bao hàm của phép biện chứng. Đây là một cống hiến to lớn của Khổng Tử trong lịch sử phát triển nhận thức của nhân loại.




TỨ THƯ - ĐẠI HỌC

ĐẠI HỌC

Chương 1
THÁNH KINH

Tiết 1:

Đạo học lớn, cốt để phát huy đức sáng, đức tốt đẹp của con người. Đổi mới khiến lòng dân bỏ cũ thay mới; bỏ ác theo thiện, khiến mọi người đạt đến mức độ đạo đức hoàn thiện nhất.
Có hiểu được phải đạt đến mức độ đạo đức hoàn thiện nhất, thì mới kiên định chí hướng.
Chí hướng kiên định rồi, tâm mới yên tĩnh.
Tâm yên tĩnh rồi, lòng mới ổn định.
Lòng ổn định rồi, suy nghĩ sự việc mới có thể chu toàn.
Suy nghĩ sự việc chu toàn rồi, mới có thể xử lý, giải quyết công việc được thỏa đáng.

Vạn vật đều có đầu có đuôi, có gốc có ngọn. Vạn sự đều có bắt đầu và kết thúc. Biết làm cái gì trước cái gì sau, tức là đã tiếp cận với nguyên tắc của Đạo rồi vậy.

Tiết 2:

Thời cổ đại, phàm những Thánh nhân muốn phát huy tính thiện của con người đến khắp thiên hạ, trước hết phải lãnh đạo tốt nước mình, bang mình.
Muốn lãnh đạo tốt nước mình, bang mình, trước hết cần chỉnh đốn gia đình, gia tộc của mình.
Muốn chỉnh đốn tốt gia đình, gia tộc của mình, trước hết phải tu dưỡng tốt phẩm đức bản thân mình.
Muốn tu dưỡng tốt phẩm đức bản thân mình, trước hết phải làm cho tâm tư mình ngay thẳng, đoan chính. Muốn cho tâm tư mình ngay thẳng, đoan chính, trước hết phải có ý nghĩ thành thật. Muốn có ý nghĩ thành thật, trước hết phải có nhận thức đúng đắn. Mà con đường nhận thức đúng đắn, chính là nghiên cứu đến nơi đến chốn, lĩnh hội được cái nguyên lý của sự vật.

Tiết 3:

Có lĩnh hội được nguyên lý của sự vật, nhận thức mới đúng đắn, ý nghĩ mới thành thực. Ý nghĩ thành thực, tâm tư mới ngay thẳng. Tâm tư ngay thẳng, phẩm đức bản thân mới tu dưỡng tốt. Phẩm đức bản thân tu dưỡng tốt, mới chỉnh đốn tốt gia đình, gia tộc mình. Chỉnh đốn tốt gia đình, gia tộc mình, mới lãnh đạo tốt nước mình. Lãnh đạo tốt nước mình, thiên hạ mới được thái bình (mới bình trị được thiên hạ).

Tiết 4:

Từ vua thiên tử đến người bình dân, ai ai cũng phải lấy tu dưỡng phẩm đức làm gốc.
Một cây, cái gốc đã mục nát rồi, mà cái ngọn còn tốt tươi, là điều không thể có. Xem nhẹ cái căn bản đáng phải xem trọng, coi trọng cái chi tiết vốn là thứ yếu, xưa nay chưa từng có bao giờ.

Lời bình:

Cương lĩnh "trị quốc bình thiên hạ" do Nho gia đề xướng, là "tam cương, bát mục"
"Tam cương" là ba cương lĩnh:
- Minh minh đức.
- Tân dân.
- Chỉ ư chí thiện.

"Minh minh đức" là phát huy đức sáng, tính tốt, tính thiện của nhân dân, yêu cầu gia cấp thống trị phát huy quan niệm đạo đức, luận lý truyền thống Nho gia, để duy trì trật tự xã hội, đề xướng thực hành đường lối đức trị.

"Tân dân" là đổi mới lòng dân, đổi mới cách suy nghĩ của dân, bỏ cũ thay mới, bỏ ác theo thiện, yêu cầu mọi người thực hiện đạo đức của Nho gia, phát huy cao độ đạo đức Trời đã phú cho con người lúc mới sinh, để làm thay đổi đạo đức con người, khiến mọi người có thể từ bỏ điều xấu mà làm điều tốt, từ bỏ điều ác mà làm điều thiện.

"Chỉ ư chí thiện" là đạt đến đạo đức hoàn thiện nhất. Nho gia cho rằng, chỉ khi nào việc tu dưỡng đạo đức của con người đạt đến mức độ hoàn thiện nhất, thì nước mới được hưng thịnh phát đạt, không còn tiềm ẩn nguy cơ bị diệt vong.

"Bát mục" là tám bước cụ thể để thực hiện ba cương lĩnh nói trên. Đó là:

- Cách vật (nghiên cứu thấu đáo sự vật)
- Trí tri (hiểu biết sâu sắc, có kiến thức rõ rệt)
- Thành ý (có ý nghĩ thành thật với chính mình)
- Chính tâm (giữ lòng dạ ngay thẳng)
- Tu thân (sửa mình trở thành người tốt)
- Tề gia (chỉnh đốn tốt việc nhà)
- Trị quốc (khiến cho đất nước yên ổn)
- Bình thiên hạ (khiến cho thiên hạ thái bình)

LUẬN NGỮ - Chương 5 - CÔNG DÃ TRÀNG - Tiết 9 - 10

LUẬN NGỮ

Chương 5
CÔNG DÃ TRÀNG

Tiết 9:

Khổng Tử nói với Tử Cống: " Thử so sánh ngươi với Nhan Hồi, ai giỏi hơn ? "
Tử Cống thưa: " Con làm sao dám so sánh với Nhan Hồi. Nhan Hồi nghe một việc có thể suy ra mười việc; còn con nghe một việc chỉ có thể suy ra hai việc mà thôi ".
Khổng Tử nói: "Không bằng thật ! Ta xem ngươi đúng là không bằng Nhan Hồi ".

Lời bình:

Tiết này thể hiện tử tưởng giáo dục của Khổng Tử. Tử Cống và Nhan Hồi là hai học trò của Khổng Tử. Nha Hồi học một biết mười, Tử Cống học một biết hai.

Thế giới rộng lớn bao la vạn tượng, đủ các loại sự lý phức tạp đan xen. Nhưng, mỗi sự vật đều có mối liên hệ phổ biến với sự vật khác, nghĩa là mỗi sự vật vừa có tính đặc thù của mình, vừa có tính chung. Nắm bắt được tính chung của sự vật, thì nghe một biết hai, thậm chí nghe một biết mười, từ một sự vật có thể suy ra mười sự vật khác.

Đây là phép biện chứng của nhận thức luận.

Ngày thường, Tử Cống so sánh mình với Nhan Hồi và biết mình không bằng Nhan Hồi, nên nói như vậy. Khổng Tử đánh giá Tử Cống tự biết mình không bằng Nhan Hồi là thái độ rất nghiêm túc, thật đáng tôn trọng.

Tiết 10:

Tể Dữ ngủ ban ngày. Khổng Tử nói: " Gỗ mục không có cách gì đẽo thành công cụ. Giống như bức tường bằng đất nhỏ, xấu xí thì không bao giờ quét vôi cho mới được. Đối với con người như Tể Dữ, ta trách cứ mà làm gì ? ".
Tiếp đó, Khổng Tử nói thêm: " Khi trước, ta chỉ nghe nói người khác thì tin vào việc làm. Nhưng nay, ta nghe người khác nói rồi còn phải quan sát việc làm nữa. Chính vì Tể Dữ ngủ ban ngày, mà ta thay đổi cách nhìn nhận như vậy.

Lời bình:

Tể Dữ nói hay, nhưng việc làm không đúng như lời đã nói. Khổng Tử dạy học trò phải học tập không mệt mỏi, thế mà Tể Dữ dám ngủ ngày.
Từ sự kiện này, Khổng Tử tự sửa chữa sai lầm, thay đổi cách thức nhìn nhận đánh giá con người, từ "nghe người khác nói mà tin việc làm ", sang " nghe người khác nói còn phải xem việc làm ".
Quan sát một con người, không nên chỉ nghe người ta nói, mà phải quan sát hành vi của người ấy như thế nào. Không những nghe người ta nói như thế nào, mà phải xem người ta hành động ra sao.
Đây là kết luận của Khổng Tử.


Thông

身命六親概要
Thân mệnh lục thân khái yếu

金星掌文爵,躔參水度,與命度為同經,木星掌田官度主,守照命宮,為田官入命,三方有金星釣照,為命度主之恩,又命度主水星飛入兄弟宮,躔心月度,化曜為 偏財躔傷官度,最為上格,惜原盤月躔日度失次,且喜四月度頂官魁財印諸吉星,均與水主為有關涉,綜上各點,文爵官魁財印等星,與命相互頂躔,自是功名有份 之人。又田宅入命,財躔傷度,當許創業興家,惟財入閒宮,剝削亦眾。又月躔虛日度,即以日為身主,太陽起在卯宮,為向明之地,且入財垣地,必主出身清高, 得邀天爵。至論性情,命入金宮,秉性方正,以水為度主,則圓融智巧,亦屬天成。
Kim tinh chưởng văn tước,triền tham thủy độ,dữ mệnh độ vi đồng kinh,Mộc Tinh chưởng điền quan độ thiển,thủ chiếu mệnh cung,vi điền quan nhập mệnh,tam phương hữu kim tinh điếu chiếu,vi mệnh độ thiển chi ân,hựu mệnh độ thiển Thủy Tinh phi nhập huynh đệ cung,triền tâm nguyệt độ,hóa diệu vi thiên tài triền thương quan độ,tối vi thượng cách,tích nguyên bàn nguyệt triền nhật độ thất thứ,thả hỉ Tứ nguyệt độ đính quan khôi tài ấn chư cát tinh,quân dữ thủy thiển vi hữu quan thiệp,tổng thượng các điểm,văn tước quan khôi tài ấn đẳng tinh,dữ mệnh tương hỗ đính triền,tự thị công danh hữu phần chi nhân。Hựu điền trạch nhập mệnh,tài triền thương độ,đương hứa sáng nghiệp hưng gia,duy tài nhập gian cung,bác tước diệc chúng。Hựu nguyệt triền hư nhật độ,tức dĩ nhật vi thân thiển,thái dương khởi tại mão cung,vi hướng minh chi địa,thả nhập tài viên địa,tất thiển xuất thân thanh cao, đắc yêu thiên tước。Chí luận tính tình,mệnh nhập kim cung,bỉnh tính phương chính,dĩ thủy vi độ thiển,tắc viên dung trí xảo,diệc thuộc thiên thành。

再論六親,查田宅為父母之宮,日月為父母之象,原盤田宅宮有土星對照,土掌原太歲飛刃地雌,且太陽躔土,太陰躔日,均為失次,親蔭雖濃,但恐怙恃難久。兄 弟之位,落在寅宮,木數為三,水掌驛馬守照本宮,主勞燕分飛,且度居兩歧,雁序雖三,亦須異母。妻宮有木星對照,木登木殿,妻主受洩,主星飛入寅宮,亦為 洩氣之地,結髮當難偕老,喜水星起躔月度,為偏財躔傷官度,若鸞膠再續,堪許白首同盟,男女臨於子垣,度亦為土,數可論五,但原盤土躔木度失次,而木星又 來釣照,五減為三,且喜主星起在官祿之宮,當許箕裘克紹也。欲知逐年遭際,再為限度詳參。(曹仁麟自批語,以下則用「曹」字代之)
Tái luận lục thân,tra điền trạch vi phụ mẫu chi cung,nhật nguyệt vi phụ mẫu chi tượng,nguyên bàn điền trạch cung hữu Thổ Tinh đối chiếu,thổ chưởng nguyên Thái Tuế phi nhận địa thư,thả thái dương triền thổ,thái âm triền nhật,quân vi thất thứ,thân ấm tuy nùng,đãn khủng hỗ thị nan cửu。Huynh đệ chi vị,lạc tại dần cung,mộc số vi tam,thủy chưởng dịch mã thủ chiếu bổn cung,thiển lao yến phân phi,thả độ cư lưỡng kỳ,nhạn tự tuy tam,diệc tu dị mẫu。Thê cung hữu Mộc Tinh đối chiếu,mộc đăng mộc điện,thê thiển thụ duệ,chủ tinh phi nhập dần cung,diệc vi duệ khí chi địa,kết phát đương nan giai lão,hỉ Thủy Tinh khởi triền nguyệt độ,vi thiên tài triền thương quan độ,nhược loan giao tái tục,kham hứa bạch thủ đồng minh,nam nữ lâm ư tử viên,độ diệc vi thổ,số khả luận ngũ,đãn nguyên bàn thổ triền mộc độ thất thứ,nhi Mộc Tinh hựu lai điếu chiếu,ngũ giảm vi tam,thả hỉ chủ tinh khởi tại quan lộc chi cung,đương hứa cơ cừu khắc thiệu dã。Dục tri trục niên tao tế,tái vi hạn độ tường tham。 (Tào nhân lân tự phê ngữ,dĩ hạ tắc dụng 「tào」 tự đại chi)

日躔氐初,為辰宮十五度,以果老之法計算,當於十五歲起相品一限——參考作者於《新詮》案廿三之解說——卦氣所在為「巳」而非「申」,蓋丙戌年則以「丙在艮門立」、由寅宮起「丙」,逆數至月所在之子宮,得「戊」字,戊祿於巳也。
Nhật triền để sơ,vi thần cung thập ngũ độ,dĩ quả lão chi pháp kế toán,đương ư thập ngũ tuế khởi tương phẩm nhất hạn——tham khảo tác giả ư 《tân thuyên》 án nhập tam chi giải thuyết——quái khí sở tại vi 「tị」 nhi phi 「thân」 ,cái bính tuất niên tắc dĩ 「bính tại cấn môn lập」 、do dần cung khởi 「bính」 ,nghịch số chí nguyệt sở tại chi tử cung,đắc 「mậu」 tự,mậu lộc ư tị dã。

仁麟先生命居墓地,得文昌、驛馬拱照,當為富貴之命,「命坐祿坐庫坐貴‥‥皆主富貴」《果老》二九二)。非木不儒,科甲星又升殿,故科甲出身當無可懷疑 矣!更何況有文昌拱命,有利小試。至於其相貌,身必如樹之修長,木在命宮,紫炁又為木之餘,於相品宮中先入為主;夜生又得金月之拱照,英俊斯文,仁慈和 藹。但金性剛烈,配以紫木,書生氣質必重。
Nhân lân tiên sinh mệnh mộ địa,đắc Văn Xương、dịch mã củng chiếu,đương vi phú quý chi mệnh, 「mệnh tọa lộc tọa khố tọa quý ‥‥giai thiển phú quý」 《quả lão》 nhị cửu nhị) 。Phi mộc bất nho,khoa giáp tinh hựu thăng điện,cố khoa giáp xuất thân đương vô khả hoài nghi hĩ!canh hà huống hữu Văn Xương củng mệnh,hữu lợi tiểu thí。Chí ư kì tướng mạo,thân tất như thụ chi tu trường,mộc tại mệnh cung,tử 炁 hựu vi mộc chi dư,ư tương phẩm cung trung tiên nhập vi chủ;dạ sanh hựu đắc kim nguyệt chi củng chiếu,anh tuấn tư văn,nhân từ hòa ái。Đãn kim tính cương liệt,phối dĩ tử mộc,thư sinh khí chất tất trọng。

先生格局最可取之處乃「龍盤虎踞,當朝之士」;「金木為龍虎之星,各得其用,而照守命宮」(《果老》二二五、二一四)。如生於春而非生於深秋之戌月,則命 主早已身列翰林,蓋官祿主為月,月在上弦,日出之前,月得火羅之侍衛,長明於子,拱照天秤,氣象不凡。今華蓋於妻宮直照,紫炁躔月度,宦海浮沉,官星不得 力;一生之中,成就在於《六壬述古》,《奇門》及《星度指南》,藏諸名山,傳之其人,豈非命乎?
Tiên sinh cách cục tối khả thủ chi xứ nãi 「long bàn hổ cứ,đương triều chi sĩ」 ; 「kim mộc vi long hổ chi tinh,các đắc kì dụng,nhi chiếu thủ mệnh cung」 ( 《quả lão》 nhị Nhị Ngũ、nhị nhất tứ) 。Như sanh ư xuân nhi phi sanh ư thâm thu chi tuất nguyệt,tắc mệnh thiển tảo dĩ thân liệt hàn lâm,cái quan lộc thiển vi nguyệt,nguyệt tại thượng huyền,nhật xuất chi tiền,nguyệt đắc hỏa la chi thị vệ,trường minh ư tử,củng chiếu thiên xứng,khí tượng bất phàm。Kim hoa cái ư thê cung trực chiếu,tử 炁 triền nguyệt độ,hoạn hải phù trầm,quan tinh bất đắc lực;nhất sinh chi trung,thành tựu tại ư 《lục nhâm thuật cổ》 , 《kì môn》 cập 《tinh độ chỉ nam》 ,tàng chư danh sơn,truyền chi kì nhân,khởi phi mệnh hồ?

仁麟先生命居兩歧,日宅主為土星,失躔於井木,日東西北,若非偏生庶出則宜過房離祖,夜土犯月殿,羊刃空亡臨日殿,計羅犯日月度,怙恃難久也。寅為兄弟, 水火相攻,寅為木,數為三,亦必雁行分飛,各散東西。今妻星升殿於尾火,必為賢淑之婦,但劍鋒在妻宮,水又傷火,一妻不能偕老之象。可喜者為金星飛入長生 之地,臨遷移宮,當娶外州女終老.,金躔水度,與命度主相通有情也。
Nhân lân tiên sinh mệnh cư lưỡng kỳ,nhật trạch thiển vi Thổ Tinh,thất triền ư tỉnh mộc,nhật đông tây bắc,nhược phi thiên sinh thứ xuất tắc nghi quá phòng ly tổ,dạ thổ phạm nguyệt điện,dương nhận không vong lâm nhật điện,kế la phạm nhật nguyệt độ,hỗ thị nan cửu dã。Dần vi huynh đệ, thủy hỏa tương công,dần vi mộc,số vi tam,diệc tất nhạn hành phân phi,các tán đông tây。Kim thê tinh thăng điện ư vĩ hỏa,tất vi hiền thục chi phụ,đãn kiếm phong tại thê cung,thủy hựu thương hỏa,nhất thê bất năng giai lão chi tượng。Khả hỉ giả vi kim tinh phi nhập trường sinh chi địa,lâm thiên di cung,đương thú ngoại châu nữ chung lão .,kim triền thủy độ,dữ mệnh độ thiển tương thông hữu tình dã。

至於男女宮見月,宜先生女,子當首損,土星失躔也!然仁麟先生終當有子,計都代失躔之土。男宮見飛刃、大殺、地雌,有早殤之子,後生者必佳,計都飛入卦 氣,祿勳之地,且男宮又為帝旺之鄉,必有貴子;屬申年命者更佳,有文昌臨照;而男女星又入官祿宮,未竟之志,子當承之,幹父之蠱,克紹箕裘。
Chí ư nam nữ cung kiến nguyệt,nghi tiên sinh nữ,tử đương thủ tổn,Thổ Tinh thất triền dã!nhiên nhân lân tiên sinh chung đương hữu tử,kế đô đại thất triền chi thổ。Nam cung kiến phi nhận、đại sát、địa thư,hữu tảo thương chi tử,hậu sinh giả tất giai,kế đô phi nhập quái khí,lộc huân chi địa,thả nam cung hựu vi đế vượng chi hương,tất hữu quý tử;thuộc thân niên mệnh giả canh giai,hữu Văn Xương lâm chiếu;nhi nam nữ tinh hựu nhập quan lộc cung,vị cánh chi chí,tử đương thừa chi,can phụ chi cổ,khắc thiệu cơ cừu。

仁麟先生之田宅見的殺,宮為祖,破祖之象也,飛出之星臨官祿,但又失躔,餘奴代之(計躔日度),可自立自成。至於財宮見日本屬吉象,奈何地耗、小耗見臨, 財難聚矣!財宮主入閒宮,劫財之象,宮主又為水剋於後,金水對照相生,但又火金對剋,星象駁雜,財莫強求,隨遇而安則終會有財,原因是日福臨財宮,財星飛 出升殿,有天降之財,此乃不可置疑之事也!
Nhân lân tiên sinh chi điền trạch kiến đích sát,cung vi tổ,phá tổ chi tượng dã,phi xuất chi tinh lâm quan lộc,đãn hựu thất triền,dư nô đại chi (kế triền nhật độ) ,khả tự lập tự thành。Chí ư tài cung kiến Nhật Bản thuộc cát tượng,nại hà địa háo、tiểu háo kiến lâm, tài nan tụ hĩ!tài cung chủ nhập gian cung,kiếp tài chi tượng,cung chủ hựu vi thủy khắc ư hậu,kim thủy đối chiếu tương sinh,đãn hựu hỏa kim đối khắc,tinh tượng bác tạp,tài mạc cường cầu,tùy ngộ nhi an tắc chung hội hữu tài,nguyên nhân thị nhật phúc lâm tài cung,tài tinh phi xuất thăng điện,hữu thiên giáng chi tài,thử nãi bất khả trí nghi chi sự dã!

說到行限度,木火升殿,忌餘奴到度;土失躔於木度,怕行土度。倒限之象,以木火土度為明顯,宜留意流星犯度;若問疾病,宮主既不受傷,且又宮清,不必怕有宿疾躔身。若倒限可免,頂壽不過奴僕一宮,原星盤有孛羅交戰,到時流計必會掠過而與原孛刑戰。
Thuyết đáo hành hạn độ,mộc hỏa thăng điện,kị dư nô đáo độ;thổ thất triền ư mộc độ,phạ hành thổ độ。Đảo hạn chi tượng,dĩ mộc hỏa thổ độ vi minh hiển,nghi lưu ý lưu tinh phạm độ;nhược vấn tật bệnh,cung chủ ký bất thụ thương,thả hựu cung thanh,bất tất phạ hữu túc tật triền thân。Nhược đảo hạn khả miễn,đính thọ bất quá nô bộc nhất cung,nguyên tinh bàn hữu bột la giao chiến,đáo thời lưu kế tất hội lược quá nhi dữ nguyên bột hình chiến。

童限之事,仁麟先生並未言及,惟得夜月及金星之拱照,三方見月則論月,見近望之月則為吉象,故誕生之時雖為歲破,太歲沖限,三個多月之後便是丁亥年,祇要 流金不在角木度上便無事矣。流年紫炁會於命主三歲多時犯角木,但並不帶太歲之刃,劫的天雄地雌,雖劃度而不倒限(《果老》五〇五)。四歲、五歲之間命主遇 元木,此間流年金星會與之相戰,有病。限至軫水度之時,命主五歲矣,流計不臨軫水,所怕者乃五至十一歲間流土流孛為患,以及壬辰年之太歲沖限;十一、十二 歲時流羅掠過翼火度,十三歲戊戌年之太歲臨限。
Đồng hạn chi sự,nhân lân tiên sinh tịnh vị ngôn cập,duy đắc dạ nguyệt cập kim tinh chi củng chiếu,tam phương kiến nguyệt tắc luận nguyệt,kiến cận vọng chi nguyệt tắc vi cát tượng,cố đản sinh chi thời tuy vi tuế phá,Thái Tuế trùng hạn,tam cá đa nguyệt chi hậu tiện thị đinh hợi niên,kì yếu lưu kim bất tại giác mộc độ thượng tiện vô sự hĩ。Lưu niên tử 炁 hội ư mệnh thiển tam tuế đa thời phạm giác mộc,đãn tịnh bất đái Thái Tuế chi nhận,kiếp đích thiên hùng địa thư,tuy hoạch độ nhi bất đảo hạn ( 《quả lão》 ngũ 〇ngũ) 。Tứ tuế、ngũ tuế chi gian mệnh thiển ngộ nguyên mộc,thử gian lưu niên kim tinh hội dữ chi tương chiến,hữu bệnh。Hạn chí chẩn thủy độ chi thời,mệnh thiển ngũ tuế hĩ,lưu kế bất lâm chẩn thủy,sở phạ giả nãi ngũ chí thập nhất tuế gian lưu thổ lưu bột vi hoạn,dĩ cập nhâm thần niên chi Thái Tuế trùng hạn;thập nhất、thập nhị tuế thời lưu la lược quá dực hỏa độ,thập tam tuế mậu tuất niên chi Thái Tuế lâm hạn。

命宮中之角木、軫水及翼火三宿之中,童限中如有人受剋,則為兄弟而非父母,因三宿之中祇兄弟宮主躔角木度。至於妻躔火度,童限亦可能剋妻,但命主亦不會於 童限中結婚。角木限度於三歲、四歲間暗頂金,軫水度則為五、六歲時暗頂土,十一歲時翼火度暗頂水星,此些年歲若有波動亦無礙。然於十二歲翼火已在強度,命 度軫水剋之為財,揚帆出海當逢其時也。
Mệnh cung trung chi giác mộc、chẩn thủy cập dực hỏa tam túc chi trung,đồng hạn trung như hữu nhân thụ khắc,tắc vi huynh đệ nhi phi phụ mẫu,nhân tam túc chi trung huynh đệ cung chủ triền giác mộc độ。Chí ư thê triền hỏa độ,đồng hạn diệc khả năng khắc thê,đãn mệnh thiển diệc bất hội ư đồng hạn trung kết hôn。Giác mộc hạn độ ư tam tuế、tứ tuế gian ám đính kim,chẩn thủy độ tắc vi ngũ、lục tuế thời ám đính thổ,thập nhất tuế thời dực hỏa độ ám đính Thủy Tinh,thử ta niên tuế nhược hữu ba động diệc vô ngại。Nhiên ư thập nhị tuế dực hỏa dĩ tại cường độ,mệnh độ chẩn thủy khắc chi vi tài,dương phàm xuất hải đương phùng kỳ thời dã。


限度分年詳參
Hạn độ phân niên tường tham

十六歲(辛醜)、十七歲(壬寅)起巳限,行翼六之一度,原盤火星登殿,福蔭優渥,又為科名之度,小試必利。——曹
Thập lục tuế (tân sửu) 、thập thất tuế (nhâm dần) khởi tị hạn,hành dực lục chi nhất độ,nguyên bàn hỏa tinh đăng điện,phúc ấm ưu ác,hựu vi khoa danh chi độ,tiểu thí tất lợi。——Tào

翼火度上事無不順,壬寅年遇流年玉貴。命主為儒生,玉貴者乃玉堂貴人,翰林之意,豈無科第之成乎?加以文昌拱命,後年甲辰流年又見文昌,更進一步。
Dực hỏa độ thượng sự vô bất thuận,nhâm dần niên ngộ lưu niên ngọc quý。Mệnh thiển vi Nho Sinh,ngọc quý giả nãi ngọc đường quý nhân,hàn lâm chi ý,khởi vô khoa đệ chi thành hồ?Gia dĩ Văn Xương củng mệnh,hậu niên giáp thần lưu niên hựu kiến Văn Xương,cánh tiến nhất bộ。


十八歲(癸卯)、十九歲(甲辰)、二十歲(乙巳)、二十一歲.(丙午)、二十二歲(丁未)、二十三歲(戊申)行張月十七之一,為傷官度,尚難問名,喜原盤官魁財印諸吉星,均在月躔。科舉因緣,亦非份外。惟當生月躔失次,月為母為身,不免萱庭多疾,喜懼交拜也。——曹
Thập bát tuế (quý mão) 、thập cửu tuế (giáp thần) 、nhị thập tuế (ất tị) 、nhị thập nhất tuế . (bính ngọ) 、nhị thập nhị tuế (đinh vị) 、nhị thập tam tuế (mậu thân) hành trương nguyệt thập thất chi nhất,vi thương quan độ,thượng nan vấn danh,hỉ nguyên bàn quan khôi tài ấn chư cát tinh,quân tại nguyệt triền。Khoa cử nhân duyến,diệc phi phân ngoại。Duy đương sanh nguyệt triền thất thứ,nguyệt vi mẫu vi thân,bất miễn huyên đình đa tật,hỉ cụ giao bái dã。——Tào

癸卯年有流年天貴,丙午戊申又見流年之祿勳,時命主亦限入張月度,大限已有祿勳,流年復又見之,過了帶孤劫之紫炁,仁麟先生當可結婚。然大醇小疵者乃月躔 虛日,陰差陽錯,癸卯年暗頂土星,母恐有疾,加以流計掠過張月度,帶陰刃、三刑,月為母、為身、為妻,是誰受傷至深,惟命主自知矣!
Quý mão niên hữu lưu niên thiên quý,bính ngọ mậu thân hựu kiến lưu niên chi lộc huân,thời mệnh thiển diệc hạn nhập trương nguyệt độ,đại hạn dĩ hữu lộc huân,lưu niên phục hựu kiến chi,quá liễu đái cô kiếp chi tử 炁,nhân lân tiên sinh đương khả kết hôn。Nhiên đại thuần tiểu tỳ giả nãi nguyệt triền hư nhật,âm sai dương thác,quý mão niên ám đính Thổ Tinh,mẫu khủng hữu tật,gia dĩ lưu kế lược quá trương nguyệt độ,đái âm nhận、tam hình,nguyệt vi mẫu、vi thân、vi thê,thị thùy thụ thương chí Thẩm,duy mệnh thiển tự tri hĩ!

二十四歲(己酉)行張一之星七,為初交刃首之年(日掌原太歲陽刃),月為母度,計星又到限度(計為月之難星),流年釣起本限,應丁內艱,又計為子星,同年並應得子。——曹
Nhị thập tứ tuế (kỷ dậu) hành trương nhất chi tinh thất,vi sơ giao nhận thủ chi niên (nhật chưởng nguyên Thái Tuế dương nhận) ,nguyệt vi mẫu độ,kế tinh hựu đáo hạn độ (kế vi nguyệt chi nan tinh) ,lưu niên điếu khởi bổn hạn,ứng đinh nội gian,hựu kế vi tử tinh,đồng niên tịnh ưng đắc tử。——Tào

原圖之羅計並不在一百八十度之直線上,似有微誤,己酉年遇元計,凡遇刑囚暗耗均不吉。若問是年會否得子,除計都為餘奴代主之子星外,鈎起飛來之紫炁為天嗣 星、天貴星。談及丁內艱之事,元計為天刑星,而流孛掠過星日度,月躔虛日,故當受波及,而流年大限見飛簾、白虎,妻母如為火命者必亡。
Nguyên đồ chi la kế tịnh bất tại nhất bách bát thập độ chi trực tuyến thượng,tự hữu vi ngộ,kỷ dậu niên ngộ nguyên kế,phàm ngộ hình tù ám háo quân bất cát。Nhược vấn thị niên hội phủ đắc tử,trừ kế đô vi dư nô đại thiển chi tử tinh ngoại,鈎 khởi phi lai chi tử 炁 vi thiên tự tinh、thiên quý tinh。Đàm cập đinh nội gian chi sự,nguyên kế vi thiên hình tinh,nhi lưu bột lược quá tinh nhật độ,nguyệt triền hư nhật,cố đương thụ ba cập,nhi lưu niên đại hạn kiến phi liêm、bạch hổ,thê mẫu như vi hỏa mệnh giả tất vong。




LUẬN NGỮ

LUẬN NGỮ

Chương 2
VI CHÍNH

Tiết 22:

Tử Trương hỏi: " Có thể biết chế độ lễ nghĩa mười đời về sau không ? "

Khổng Tử nói: " Nhà Ân dựa vào chế độ nhà Hạ mà bỏ bớt hoặc thêm vào, điều đó cũng có thể hiểu được. Nhà Chu dựa vào chế độ nhà Ân mà bỏ bớt hoặc thêm vào, điều này cũng có thể hiểu được. Vì vậy, tương lai người kế nghiệp nhà Chu, cầm quyền thay nhà Chu, hoặc dù cho đến một trăm đời sau, cứ theo đó mà suy ra vẫn có thể biết trước ".

Lời bình:

Trong lịch sử, có người nói Khổng Tử có thể biết trước một nghìn năm và sau một vạn năm. Đâu phải Khổng Tử có trí tuệ và năng lực siêu nhân, mà là vì Khổng Tử có phương pháp xem xét đúng đắn.

Nên khi nghe Tử Trương hỏi, Khổng Tử nói hoàn toàn có thể biết được, không chỉ mười đời mà cả trăm đời về sau, cũng có thể suy đoán ra. Bởi vì, Lịch sử là quá trình kế thừa và phát triển liên tục, kế tiếp nhau. Mỗi thời đại mới, đều kế thừa thời đại trước đó, đều có đổi mới phát triển, nhưng kế thừa là phần lớn. Đổi mới, thay đổi, phế bỏ và bổ xung đều chỉ giới hạn ở một số mặt và ở mức độ nhất định.

Nhà Ân kế thừa nhà Hạ, tuy có phế bỏ và có bổ xung, có điều có ích và có điều có hại, nhưng đại thể kế thừa là chủ yếu. Nhà Chu đối với nhà Ân cũng như vậy. Đời sau đối với đời trước chủ yếu là kế thừa. Điều này, quyết định tính ổn định tương đối của cải cách trong lịch sử. Theo đạo lý, nếu biết đời trước thì có thể biết đời sau, thậm chí có thể biết mười đời hoặc một trăm đời sau.

Đây là phương pháp xem xét khoa học của Khổng Tử để dự đoán tương lai.

Tiết 23:

Khổng Tử nói: " Không phải Tổ tiên mình, mà mình lại cúng tế, như vậy là siểm nịnh. Nhìn thấy việc chính nghĩa mà không dám làm, là không có dũng khí ".

Lời bình:

Trong quan niệm tư tưởng, Khổng Tử phản đối mạnh nhất là siểm nịnh và rất coi thường kẻ nịnh bợ, tâng bốc. Khổng Tử không những phản đối kẻ nịnh hót người sống, mà còn phản đối nịnh hót người đã chết. Khổng Tử biết rất rõ việc siểm nịnh người đã chết là để cho người còn sống xem, do vậy hành vi này vẫn là siểm nịnh người đang sống.

Bình sinh Khổng Tử không hề nịnh bợ ai.

Nhìn thấy hành vi chính nghĩa mà không dám làm, không dám ủng hộ, Khổng Tử cho đó là loại người không có dũng khí. Mạnh Tử từng nói: " Sự sống là điều ta muốn, việc nghĩa cũng là điều ta muốn, nếu hai điều này không thể chung được trong ta, thì ta sẵn sàng bỏ sự sống mà làm việc nghĩa ".

Thấy chính nghĩa dám làm, dám ủng hộ thì đó là con người sẵn sàng vì lợi ích Quốc gia, lợi ích tập thể, lợi ích cộng đồng, mà dám hy sinh lợi ích cá nhân. Trong lịch sử có biết bao nhân vật thấy chính nghĩa đã dũng cảm ra tay hành động, để lại bao sự tích anh hùng đáng ca tụng. Nhưng trong cuộc sống xã hội hiện nay, người thấy chính nghĩa mà vẫn im lặng, không dám đứng về phía chính nghĩa, không dám bảo vệ chính nghĩa vẫn còn tồn tại không ít.

Câu nói này của Khổng Tử cho tới nay, vẫn còn mang giá trị hiện thực.




Thanh Nang Kinh

青囊经
上卷
经曰: 天尊地卑,阳奇阴偶。一共六宗,二七同道,三八为朋,四九为友,五十同途。阖辟奇偶,五兆生成,流行终始。八体弘布,子母分施。天地定位,山泽通气,雷风相薄,水火不相射。中五立极,临制四方,背一面九,三七居旁,二八四六,纵横纪纲。阳以相阴,阴以含阳。阳生于阴,柔生于刚。阴德弘济,阳德顺昌。是故阳本阴,阴育阳,天依形,地附气。此之谓化始。
中卷
经曰:天有五星,地有五行。天分星宿,地列山川。气行于地,形丽于天。因形察气,以立人纪。紫微天极,太乙之御,君临四正,南面而治。天市春宫,少微西掖。太微南垣,旁照四极。四七为经,五德为纬,运干坤舆,垂光乾纪。七政枢机,流通终始。地德上载,天光下临。阴用阳朝,阳用阴应。阴阳相见,福禄永贞。阴阳相乘,祸咎踵门。天之所临,地之所盛。形止气畜,万物化生。气感而应,鬼福及人。是故天有象,地有形,上下相须而成一体。此之谓化机。
下卷
经曰:无极而太极也。理寓于气,气囿于形。日月星宿,刚气上腾。山川草木,柔气下凝。资阳以昌,用阴以成。阳德有象,阴德有位。地有四势,气从八方。外气行形,内气止生。乘风则散,界水则止。是故顺五兆,用八卦,排六甲,布八门,推五运,定六气,明地德,立人道,因变化,原终始。此之谓化成。


青囊經
此經原本黃石公授赤松子祕鑰,為地理理法之祖。類分化始、化機、化成三卷。理顯法微,非淺學所能悟入。其辨正所集曾公序、楊公奧語、天玉、寶照四篇,皆發明此經精義。前蔣公補傳,理數全剖,而於地理作法及三卷節目均隱而不露,以致後人不得其門而入,邪說紛紛,由此起也。今特將地理作法,及三卷節目剖明切指,更增讀法,庶學者不為邪說所誘耳。
讀青囊經,宜先講易,研考河圖洛書一奇一耦,對待生成合化之數;太極兩儀四象;先後天八卦錯綜抽換中爻象義之理法,方有下手處。
讀青囊經,先觀三卷大旨,上卷化始,為天地開闢之道;中卷化機,為天地動靜之道;下卷化成,為天地生成之道。然後知地理理氣作用根源。
讀青囊經,又宜先訪明師得受地理真法,而後知三卷節目。上卷首節,總起元空大卦,雌雄配偶之道;次節指明元空之法;三節指明雌雄之法。中卷首節,總起地理之道,原三才一貫,足明元空雌雄,並起下挨星本原;次節指明挨星之法,三節總起元空、雌雄、挨星合用之妙;四節總論元空、雌雄、挨星靈應之理。下卷首節,總起元空、雌雄、挨星合用,隨處可以立極安宅。正楊公謂隨手拈來皆是妙用之義也。二節指明城門一法;三節指明太歲一法及扶龍氣一法。而地理理氣之道備矣。
讀青囊經,知得三卷節目,得受元空、雌雄、挨星、城門、太歲、扶補六箇真法,而後蔣公所集,青囊序、青囊奧語、天玉、寶照四篇之祕隱語,有豁然貫通者,若能融會,不特為地理之精,尤得性理之道矣。
讀青囊經,能得元空、雌雄、挨星、城門、太歲、扶補之道,方知古聖人窮理立法,層次分明,原始要終,作一宅有不可缺一者。
讀青囊經,又宜參看性理諸書,以究理之精蘊,庶理精,則法密;法密,則作用無差誤。而亦可得身心性命之學。
上卷經曰
天尊地卑,陽奇陰偶。一六共宗;二七同道;三八為朋;四九為友;五十同途。五兆生成,流行終始。
天地之始,始於無形。無形何測?有氣在焉。其氣何測?有理在焉。其理何測?有數在焉。其數何測?有象在焉。其象何測?有法在焉。大聖人作易,以法天地之道,以明陰陽之理。馬圖龜書皆以昭象數之跡,故理明而數立,數立而象懸,象懸而法齊,法齊而理彰,理彰而萬物得有所定。是以陰陽萬物之準,皆由一理一法處之,豈地理一道可能外。且地理道出三才理原一貫,法無二門,笑容立說紛紛,彼此爭詡,故此倡明理法之源,以開萬世之昧。天地者,陰陽也。尊卑者,陰陽之序也。陰陽者,理也。奇耦者,數也。陰陽之理有對待,藉奇耦參伍之數:天一、地二、天三、地四、天五、地六、天七、地八、天九、地十。似兄弟相得之象而對待之。陰陽之理有交合,藉奇耦生成之數:一六共宗、二七同道、三八為朋、四九為友、五十同途。似夫婦配偶之象而交合之。然對待之理,其數在參伍,則有闔闢之體焉;交合之理,其數在生成,則有五行之兆焉。自闔闢之體立。則奇耦之數均,尊卑之序不混,天地之道大彰;自五行之兆成,則生成之數具,天地之機自萌,陰陽之氣相感。序不混則倫常不乖;道大彰則綱紀永賴;機自萌則造化纍出;氣相感則終始流行。倫常不乖,則尊卑之序,萬世昭列。綱紀永賴,則天地之道,終古復週。造化纍出,則天地之機,無有窮止。終始流行,則陰陽之氣,無有休息。地理之源,演經立義,而元空、雌雄之理法在所始也。
八體宏佈,子母分施。天地定位,山澤通氣,雷風相薄,水火不相射。中五立極,臨制四方,背一面九,三七居旁,二八四六,縱橫紀綱。
八體,即天地、山澤、雷風、水火八卦分配之體,宏佈八方之位。子母,亦天地、山澤、雷風、水火之序,分施於三路之間。此為先天卦位,本於河圖之數而作也,而一九、三七、二八、四六,縱橫十五,綱紀不雜,為洛書之數。聖人以一坎、二坤、三震、四巽、五中、六乾、七兌、八艮、九離隸之。此為後天卦位,本於洛書之數而定也。中五者,河洛皆以中五居中而立極也。極者,極也。陰陽八卦五行之根也。自中五立極,而四方方可臨制,四方臨制,方有四維界焉,八方立焉,八體佈焉,子母施焉,陰陽八卦之交感會焉,生成五行之化機萌焉。而元空之理以此為根源。所謂元空者,至元、至妙、至空、至極,大而宇宙之間生成佈滿;小而微忽之地造化無窮,合大學中庸之道,一理相貫。當其無形之氣,其氣渾然已成;當其有形之體,其體秩然有象。氣無一息不流行,體無一息不交媾,有天地尊卑陰陽闔闢之象,有剛柔老少子母次序之列,而其法,自天地定位之後,陰陽迭更,奇耦錯綜,二五妙合,抽出日月以歸本位。然後風雷、水火、山澤升降往來於兩大之間,其中中五立極,臨制四方,洛書一九、三七、二八、四六、縱橫十五之位,形氣變化,無有極極,真元空也。學者會此真寶,始知其味無窮也。
陽以相陰,陰以含陽。陽生於陰,柔生於剛。陰德宏濟,陽德順昌。是故陽本陰,陰育陽。天依形,地附氣。此謂之化始。
氣之行於天者,陰陽也。質之具於地者,剛柔也。陰陽剛柔一也,皆在一氣一質言之。陰陽乃無形之氣,藉剛柔之質而成體。剛柔乃有形之質,藉陰陽之氣而成性。陽剛陰柔,天地之大經也。蓋天之用在陰陽,陽貴而陰賤,陽之貴不在陽,而在陰,陰中之陽乃真陽也。故陽在陰之中,陰為之含,陽為之相,非遽論陽定為陰相。所云陽以相陰者,原陰中有真陽之相;陰以含陽者,原陽在陰中,即陽自陰始,陽自陰生,乃太極靜而動,動而生陽之謂。至陽動,則陽司化育之權,陽之所司,陰以助之,故陽貴而陰賤也。而地之用在剛柔,天之陽貴陰賤,地必貴剛而賤柔。剛之貴亦不在剛,而在柔。柔中有剛乃得濟也。然剛在柔之中,必剛生於柔,而反言柔生於剛者,原謂無形之氣,至剛至陽,故能發育萬物。有形之質,至柔至陰,故能孕載萬物。無形之氣,雖至陽至剛,卻無形可見,雖剛亦柔矣。有形之質,雖至陰至柔,卻有形可見,雖柔亦剛矣。是以無形之柔氣,常依有形之剛質;有形之剛質,常附無形之柔氣。斯化育生機,終始勿極。正蔣公所謂:質生氣,氣還生質。故曰柔生於剛也。柔生於剛,則剛必資乎柔,斯剛柔相濟,地之質方具,天之氣方行。而陰陽剛柔之德合矣。故陰之德,柔順端斂,能助乎陽,宏濟造化。陽之德,剛建中正,能親乎陰,順昌生育。由是天地之道立矣。是故,天地之道,陽常本於陰,即天之氣,常依地之形,而天非廓然之天也。陰常育乎陽,即地之形常附天之氣,而地非塊然之地也。此所以為化始之道也。而雌雄之源,交姤之理,在所取象而立法焉。所謂雌雄之義者,即對待交合之情,陽剛陰柔之顯象也。雌無雄不配,雄無雌不偶。所言雌雄之法旨者,以剛柔成象之質,測陰陽交姤之氣。以陰陽交姤之氣,求剛柔成象之質。明陰陽剛柔交姤之道,而雌雄之旨得矣。想天之用在陰陽,而陰自為陰,陽自為陽,陰不可混陽,而自含乎陽。陽不可混陰,而自相乎陰。地之用在剛柔,而剛自為剛,柔自為柔,剛不可混柔,而自得乎柔。柔不可混剛,而自生乎剛。氣之陽德,必得陰以宏濟。氣之陰德,必得陽以順昌。是故,觀陽則不必更觀其陰,而知必有陰以耦之。觀陰則不必更觀其陽,而知必有陽以配之。天之陰氣,必地之柔質以應之。天之陽氣,必地之剛質以應之,而天始有依。地之剛質,必天之陽氣以應之,地之柔質,必天之陰氣以應之,而地始可附。此皆釋雌雄之義也。上所謂尊卑、奇耦發雌雄之象;八卦、子母發雌雄之序。雌雄有一定之所,無一定之隅,須識元空大卦之源,陰陽剛柔之道,而後可得矣。此以上皆論天地無形之氣,為化始之氣,因氣窮理,因理窮數,因數窮象,因象立法,因法彰理。所以生天地者,此理此法。生萬物者,亦此理此法。理通一貫,法道三才,豈容地理家立說紛紛,彼此爭詡者耶。
中卷經曰
天有五星,地有五行。天分星宿,地列山川。氣行於地,形麗於天。因形察氣,以立人紀。
  天地之機,機伏於形,有形寓無形之氣,成象成形,斯機動焉。大聖人畫卦作易,仰觀俯察,以立三才之道。推源立天之道,曰陰與陽;立地之道,曰柔與剛;立人之道,曰仁與義。陰陽成象,剛柔成質,仁義成德,雖道別三才,其理一貫。蓋陰陽之象,成於天者:天有五氣,凝精於上者,曰星。剛柔之質,成於地者:地有五氣,流結於下者,曰行。仁義之德,成於人者:人有五性,混合於中者,曰常。五星之精,在天分光列象,而星宿由是周羅。五行之質,在地成形列體,而山川由是佈滿。仁義之德,在人植紀整綱而秀靈,由是鍾毓。是故,天有是象,而地即有是形。地有是形,而天即有是象。人稟天地形氣之所生,而人即有是德,有是德,方與天地形氣無虧。然地非列宿之象,而形常麗乎列宿。天亦非山川之形,而氣常行乎山川。人非星宿山川之體,而德常配乎天地。天氣地形,兩相交感,而人寓乎形氣交感之間,則鐘靈毓秀以無窮矣。聖人因形之所呈,以察氣之所稟,察氣之所稟,以因形之所呈。即有是形,察是氣;有是氣,因是形。形也,氣也,合而一者也。若有是氣,而無是形,氣亦死氣。有是形,而無是氣,形亦死形。形氣感通,機萌無已,而人紀方立,地理之理,即人紀一端。人生受天之氣,依地之形。氣有陰陽,則形有雌雄。氣有往來,則形有順逆。氣有盛衰,則形有生死。氣有闔闢,則形有尊卑。氣有交姤,則形有配合。氣有促舒,則形有壽殀。氣有清濁,則形有善惡。氣有厚薄,則形有大小。此理既明,而地理之道得矣。
紫微天極,太乙之御,君臨四正,南面而治。天市東宮,少微西掖,太微南垣,旁照四極。四七為經,五德為緯,運斡坤輿,垂光乾紀。七政樞機,流通終始。
  紫微垣居北,天之極也,太乙之御也,君之象也,南面而治天下。孔子所謂居其所,而眾星拱之。臨四正者,東有天市,西有少微,南有太微,帶本垣而為四正,以鎮四極。四極有四方,四方有蒼龍、白虎、朱鳥、元武四象,各帶七宿分野。而七宿,即七政樞機。分佈四方,每方各具一七政,總為二十八宿,以定天地之經。星宿之緯,雖佈四方,而纏渾天三百六十度,已備八卦二十四山之象矣。自經星立極,而日月五星往來如緯,以成元象。正蔣公謂一經一緯,真陰陽之交道也。於是七政流行,運則旋斡坤輿。地之體結束而安其中,光則大垂乾紀。天之體環周而固於外,此七政樞機,元氣流通,包羅六合,原無始終也。而挨星之法,由是而起。所謂挨星者,天之星宿下臨於地,地之山川上應於天,及天分星宿,地列山川,氣形於地,形麗於天之道也。然星宿之列象,其氣無歸,得北極之樞以統之,使氣一團凝結不散。山川之成形,其質無定,得九疇之範以率之,使質一團凝聚不離。氣有所歸,質有所定,質定則氣歸,氣歸則質定,氣質混合不散不離,真天地交泰,陰陽合德者也。想北極與九疇相配,乃天地陰陽自然之生成,北極七曜,戴左右而增為九,混凝於氣者,則為五星。九疇九宮虛中五而含為十,混凝於氣者,則合為五行。五星與五行合濟以成德緯,行四七經度之間,其中日月往來,水火升降,光乾運坤,一氣上下相接無終始,亦無休息,八荒遍及,無微不至,真挨星也,學者味此,其妙不可勝言。
地德上載,天光下臨。陰用陽朝,陽用陰應。陰陽相見,福祿永貞;陰陽相乘,禍咎踵門。天之所臨,地之所盛。形止氣蓄,萬物化生。
  地有形之體也,天無形之氣也。有形者,氣之所成,而即以載氣。無形者,氣之所運,而即以寓體。是故,氣行於天,而載之者地。地附天,方以成德。體列於地,而臨之者天。天依地,方以垂光。然氣行於天,氣本陽也。體列於地,體本陰也。陰體宜用陽氣朝之,斯地得所,而天氣方歸。陽氣宜用陰體應之,斯天得所,而地體方列。天氣地形兩相交合,則為相見。相見則福祿永貞。天氣地形兩相反逆,則為相乘。相乘則禍咎踵門。且天之氣無往不臨,地之體無往不盛,必於地之形止,而氣方蓄。亦必於天之氣蓄,而形方止。形止氣蓄,天地自然之交會,非形止,而後氣蓄。亦非氣蓄,而後形止。蓋形,地之陰也。陰不孤陰,必見天之氣而始止;氣,天之陽也。陽不獨陽,必得地之形而始蓄,即陰陽相見之謂也。形止氣蓄,而後萬物生機,有不期然而見也。茍為孤陰獨陽,則形不止而氣不蓄。即天不交,而地不會,陰陽各自相乘,萬物焉有生理。所以禍福殊途,只間一髮可不慎歟!地理三才一貫之心法,其本卷所云挨星;上卷所云元空雌雄之理法妙用,皆在一形一氣,一止一蓄之中。而形止氣蓄四字,乃三卷綱領,妙諦莫盡,非能畢洩,學者宜重思之。
氣感而應,鬼福及人。是故,天有象,地有形,上下相須而成一體,此之謂化機。
  自形止氣蓄之後,天之氣與地之形合一,則所葬之骨,亦與天地之形氣合一。合一則有感,有感則有應,其應則死骨蔭而生人福。若天之氣與地之形不交,則所葬之骨,亦與天地之形氣不交。不交則有感,有感則有應,其應則死骨朽而生人禍。或謂禍福之感,乃死骨自生,不知死骨無靈,借山川之靈以為靈;山川無主,借死骨之主以為主。以無靈之死骨,葬有靈之山川,則無靈而化為有靈;以無主之山川,藏有主之死骨,則無主化為有主。山川有靈,無主不應,死骨有主,無靈不鍾。山川死骨合成一體,所以氣感而應,鬼福及人。然山川何靈,得天地陰陽之氣所感以為靈;死骨何主,得天地陰陽之形所結而為主。山川之靈,何以靈?其靈應禍福之機;死骨之主,何以主?其主載禍福之柄。山川之氣亦非有意生禍福,而禍福自有機而出焉。適與天地陰陽之氣,相遇於窅冥之中。夫有所流通焉,夫有所閉塞焉,遂使天地陰陽之氣,與骨為一,而禍福乃勃然感爾。亦如天地生萬物,天地陰陽之氣,非有意生萬物,而萬物自有機焉。適與天地陰陽之氣,相值於恍惚之間。夫有所綢繆焉,夫有所包孕焉,遂使天地陰陽之氣,與物為一。而萬物亦勃然感爾。地理化機之道,交有如是。是故,化機之道,原本天有象,列宿得天地之氣,而生於天,列宿與天為一體也;地有形,山川得地之體,而結於地,山川與地為一體也。天之象,地之形,上下相須,合成一體。於渺冥之間,形氣交融,有不求而生機畢露者。此謂之化機。
下卷經曰
無極而太極也。理寓於氣,氣囿於形。日月星宿,剛氣上騰。山川草木,柔氣下凝。資陽以昌,用陰以成。陽德有象,陰德有位。
  天地之成,在於一氣一形。氣則化始,形則化機,始機合化,其化成矣。然氣之化始,始於無極;形之化機,機於太極。化始而後化機,即無極而太極也。故此指出無極而太極,總結上卷、中卷,化始化機之道。蓋無極即太極也,太極即無極也,非太極之外復有無極,言太極則無極可知。所謂無極而太極者,無極乃太極渾然之性,本無有物,則無物不在其中,量包天地,無有極極。而太極乃無極所受之命,為一理之源,萬化之祖。大而天地陰陽,統一太極;小而天地萬物,各具一太極。有一太極,即有一無極在焉。太極之化無窮,太極之源本一。所以,理寓於氣,氣一極也;氣囿於形,形一極也;以至於天之日月星宿,剛氣上騰,剛一極也;地之山川草木,柔氣下凝,柔一極也;地之山川草木,資陽以昌,資一極也;天之日月星宿,用陰以成,用一極也。太極之象無盡,太極之位不一,當於陰陽有象有位之中立極,方以成德。德者,一也,萬殊同歸於一也。以是知始機合化,化成之道。非化機之外,復有化始一道。有一化機,即有一化始在焉。言化機,則化始可知。化始者,即化機之氣也,化機者,即化始之形也。形無氣不動,氣無形不成,言形,則氣即寓焉;言氣,則形即寓焉。形氣不離,則始機合一,其化化生生,莫可終止,所謂無極而太極也。地理通此一竅,則化始化機思過半矣。以上所云元空、雌雄、挨星合用之妙,盡在於此。以下之城門、太歲理法之源,亦在於斯。
地有四勢,氣從八方。外氣行形,內氣止生。乘風則散,界水則止。
  此承上太極而言。地無四勢,太極乘之為四勢;氣無八方,太極御之為八方。四勢乃河圖之形,八方乃洛書之氣,皆太極象位之主。一氣一形,極極無定,非元空、雌雄、挨星立法,莫能定也。然定者,四勢之外,各得陰陽配偶之形,八方之外,各得天地交會之氣,於是外氣行形,而更於四勢八方之內,形止氣生,方不為傳舍過客。所謂內氣止生者,乃四勢八方之形氣,皆招攝翕聚乎此。是一止,則無所不止,一生,則無所不生,真太極也。而止生之法,在於一風一水,風,氣也,屬陽;水,形也,屬陰。一陰一陽,一形一氣,宜得太極位置,方有界止,但風不可乘,乘風則散;水當宜界,界水則止。散則內氣不生,雖外有形氣,而莫能歸焉。止則內氣含蓄,縱外無形氣,亦可暫息焉。總宜得其位置之法。則止者自止,生者自生,即乘者不乘,界者可界,此城門一訣之源。即寶照所謂城門一訣最為良,識得五星城門訣,立宅安墳大吉昌也。所謂城門者,界止之地,如城而有門,可開可閤,開則形氣流通,閤則形氣止蓄,即乾坤閤闢之道。非俗以水口作城門,及入首作城門,明堂界合處作城門之謬說也。城門緊要地,不可不慎,有似邦國修築城牆,圍數萬生靈,止係一門衛之之義。古人立法取名,極為鄭重。城門一訣,在風水陰陽界合之間,陽公有父子雖親,不肯說之語。豈筆所能盡露。其旨學者須得明師授之,若不得此一訣,雖元空、雌雄、挨星合法、皆不能濬發靈機矣。
是故,順五兆、用八卦、排六甲、布八門、推五運、定六氣、明地德,立人道,原終始,此之謂化成。
  地理自城門之後,理稍定矣,而法尚未全。當審五星正變之形,立其體,以辨美惡,所謂順五兆也。審八方衰旺之氣,立其應,以識成敗遲速,所謂用八卦也。審六甲紀年之運,以卜災祥,所謂排六甲也。審八方開閤之氣,以知生死,所謂布八門也。此指明太歲一訣,即天玉所謂更看太歲是何神,立地見分明也。所謂太歲者,乃禍福來去年命之道,使法不明,即得元空、雌雄、挨星、城門,可知禍福,而速遲年命之應,則不能知。此法明,而地理之妙用全矣。又貴選日授時,以旺龍氣。而選授之法甚廣,求其旺者,莫如推五運、定六氣,五運即五紀盈虛之歲,六氣即六候代謝之令。能明此,而得天地正旺之氣,以蔭龍氣,其福未有不速者也。於是五法俱備,五德俱全,而又選授合法,則地德明,而乾坤毓秀,山嶽鍾靈,聖賢豪傑,相繼而出斯。人道賴以立,天地賴以昌,聖人開物成務,未有大於此者,此謂之化成。

DỰ BÁO MỘC TINH XUẤT HIỆN - MIỀN TẠP DƯƠNG ẢNH HƯỞNG TẾT TRUNG THU 2010.











Nguồn: http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/index.php?showtopic=15964&st=0


Sep 9 2010, 06:38 PM

Bác Hà Uyên kính mến.

Thành thật xin lỗi vì chen ngang chủ để của bác. Bác giúp cho một quẻ Dịch xem thời tiết 10 ngày Đại Lễ có mưa không trên tinh thần khách quan của phương pháp Bốc Dịch. Rất mong được bác giúp đỡ để phối hợp nhiều bộ môn?


--------------------

Sep 9 2010, 07:12 PM
Chào Anh Thiên Sứ

Tôi đã tổng kết thành bảng tra ở trên, kết hợp cả phương hướng, kết hợp cả Lịch để biết hôm nay là ngày nào trong Tuần, là ngày Chủ Nhật hay là ngày Thứ Hai, Thứ Ba, ... (Đây là bảng tra ứng kỳ với Lịch pháp từ thời cụ Hoàng Xuân Hãn)

Ngày 1/10/2010 là ngày Thứ Sáu.

Tra bảng trên, thì Thứ Sáu ngày 1/10/2010 sao Kim làm chủ

- Thứ Bảy ngày 2/10/2010 thì sao Thổ.
- Chủ Nhật ngày 3/10/2010 tới sự ảnh hưởng của mặt Trời.
- Thứ Hai là ngày của mặt Trăng.
- Vì là tổ hợp của Năm - Tháng - Ngày , nên tôi nghĩ tới sự ảnh hưởng đồng thời của ba hành tinh: Mộc + Hỏa + mặt Trăng. Tra bảng trên, thứ Sáu, ngày Giáp Thân, thì Trời đối ứng về phương Bắc, Đất đối ứng tại Tây Nam (chi Thân).

- Mùa thu thì ứng với phương Tây, tra bảng trên:

2.3- Phương Tây
- Trời – thiên can [ Kỷ - Đinh - Ất – Quý – Tân ]
- Đất – địa chi [ Mão – Mùi – Hợi ]

- Thì ngày thứ Sáu là ngày Giáp Thân không ứng. Thứ Bảy là ngày Ất Dậu có thiên can Ất mà Địa chi không có chi Dậu ; Ngày Chủ Nhật là Ngày Bính Tuất không được nạp Can Chi ; tới ngày Thứ Hai là ngày Đinh Hợi thì Trời Đất đều ứng hợp.

- Như vậy, thứ Hai nhằm ngày Đinh Hợi 4/10, sao Mộc + sao Hỏa + mặt Trăng là nguyên nhân ứng kỳ hạn vào giờ Mão (5h ~ 7h)


Hà Uyên

Sep 19 2010, 07:16 AM
Sao Mộc gần Trái Đất nhất vào ngày 20/9 sắp tới

Các nhà thiên văn học Mỹ cho biết Sao Mộc sẽ là vật thể sáng nhất trên bầu trời vào ngày 20/9, hơn cả Mặt Trăng, vì khi đó hành tinh lớn nhất trong Thái dương hệ này sẽ nằm ở khoảng cách gần với Trái Đất nhất.
Cuộc “chạm trán” giữa Trái Đất và “gã khổng lồ” của Thái dương hệ sẽ bắt đầu xảy ra vào chiều tối 20/9 với ánh sáng lấp lánh ở phía Đông và sáng rực ở trên đỉnh đầu vào lúc giữa trưa 21/9.
Theo Spacedaily.com, các cuộc trạm trán giữa Trái Đất và Sao Mộc diễn ra cứ 13 tháng một lần khi hai hành tinh tiến gần nhau theo quỹ đạo riêng xung quanh Mặt Trời.
Tuy nhiên, do hai hành tinh không có quỹ đạo đồng đều nên không phải lúc nào cũng tiếp cận nhau với khoảng cách gần nhất.
Ông Tony Phillips thuộc Cơ quan Hàng không Vũ trụ Mỹ (NASA) cho biết ngày 20/9, Sao Mộc sẽ ở khoảng cách 46,6 triệu dặm, gần hơn so với những cuộc chạm trán trước đây và phải đến năm 2022, kỷ lục này mới được lặp lại.
Lần này, Sao Mộc sẽ tiến gần Trái Đất hơn bất cứ cuộc trạm chán nào diễn ra trong giai đoạn 1963-2022./.

Cao Phong (Vietnam+)


Nguồn: http://www.vietnamplus.vn/Home/Sao-Moc-gan...09/60714.vnplus



- Như vậy, sao Mộc đã được kiểm chứng khẳng định sự xuất hiện.
- Thời gian xuất hiện lệch với NASA là 14 ngày (20/9 ==> 4/10 ngày Đinh Hợi)
(ngày 20/9/2010 là ngày Quý Dậu tháng Ất Dậu năm Canh Dần, 13/8 Việt lịch)

------------------------------------------------
Ngày 30/9/2010

Thông qua dự báo của Trung tâm Khí tượng Thuỷ văn Quốc gia và Trung tâm Dự báo Khí tượng Thuỷ văn Trung ương, ngày 4/10 là ngày Đinh Hợi ứng mốc kỳ hạn:


- Từ ngày 2 đến ngày 4-10, do ảnh hưởng của không khí lạnh từ phía Bắc tràn xuống

- Từ ngày 5 đến hết ngày 7-10, do hội tụ nhiệt đới có xu thế dịch chuyển dần lên phía Bắc

Nguồn: http://www.hanoimoi.com.vn/newsdetail/Moi_...%C4%91ai-le.htm


Ta học thêm được một bài học cơ bản.

- Nhận thức rõ thêm được câu nói của Dịch: "Trước ngày Giáp ba ngày, sau ngày Giáp ba ngày" thật là chuẩn mực.

- Khi ngày 4/10 - Đinh Hợi là ngày được coi là "mốc kỳ hạn", thì ngày 2, ngày 3, ngày 4 là những ngày trở về trước thì "xuống" ; còn những ngày 5/10, ngày 6/10, ngày 7/10 là những ngày trở về sau thì "lên". Ngôn ngữ của Dự báo Quốc gia & TW cũng tương đồng với ngôn ngữ của Dịch "lên - xuống", "trước - sau", ...(số vãng giả thuận, tri lai giả nghịch)


- Anh VuiVui sử dụng ngôn ngữ "mốc kỳ hạn" được thay bằng "cận biến hóa

----------------------------
Hỏa tinh

Bão vũ trụ vừa tấn công trái đất
08/04/2010 08:00

Một cơn bão từ thoát ra từ mặt trời đã ập xuống địa cầu vào ngày 5/4 /2010 nhưng không gây thiệt hại. (ngày Ất Dậu tháng Kỷ Mão năm Canh Dần, 21/2 Việt lịch)
Bão từ xuất hiện khi dòng hạt mang điện tích phóng ra từ gió mặt trời tác dụng lên các đường cảm ứng từ của trái đất. Chúng có thể làm tê liệt hoạt động của các vệ tinh nhân tạo và thậm chí còn tấn công các mạng lưới điện trên mặt đất. Các nhà khoa học tính toán được rằng các trận bão từ đạt mức cực đại theo chu kỳ 11 năm. Theo Telegraph, các nhà thiên văn dự đoán lần cực đại sắp tới của bão từ sẽ xảy ra đúng vào dịp Thế vận hội Olympic 12 tại thành phố London, Anh.
http://www.hanoimoi.com.vn/newsdetail/Khoa_hoc/320065/bao-vu-tru-vua-tan-cong-trai-dat.htm

--------------------------------

NGÀY 4 / 10 / 2010

Ngày mốc kỳ hạn "khí phân" mùa Thu (Thu phân)







THÁI ẤT DỰ BÁO XUNG ĐỘT NAM - BẮC CAO LY

Nội dung trích dẫn(Thiên Sứ @ Jan 20 2010, 10:00 AM) *
TƯ LIỆU THAM KHẢO.
------------------------------------------------
"Sẽ có đảo chính tại Triều Tiên sau năm 2012?"

Thứ tư, 20/01/2010, 08:50(GMT+7)


Lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong-il.

VIT - Một nhóm chuyên gia Seoul hôm 19/01 nhận định, khả năng lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong-il biến mất khỏi đấu trường chính trị Triều Tiên sau năm 2012 là khá cao, đồng thời dự đoán cái chết của nhà lãnh đạo này hoặc liên quan đến một sự kiện nghiêm trọng khác như đảo chính tại Triều Tiên trong vòng 3 năm tới.

Viện Thống nhất Quốc gia (KINU) có trụ sở tại Seoul, một viện nghiên cứu liên kết với văn phòng thủ tướng, cho biết trong một báo cáo rằng Hàn Quốc nên chuẩn bị cho một cuộc đảo chính quân sự, bạo loạn, giết người hàng loạt hay hàng loạt người bỏ Triều Tiên ra đi sau sự vắng mặt của lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong-il.
“Khả năng lãnh đạo Kim vắng mặt ở Triều Tiên sau năm 2012 là khá cao”, KINU dẫn báo cáo có tựa đề “Nghiên cứu về sự thống nhất”.
“Sau sự vắng mặt của ông Kim, Triều Tiên có thể sẽ trải qua những thay đổi, có thể bao gồm: thay đổi cơ chế giống như đảo chính quân sự, bạo loạn, giết người hàng loạt hay đồng loạt rời bỏ Triều Tiên”, KINU cho biết.
Đây là lần đầu tiên một viện phân tích của chính phủ Hàn Quốc lưu ý tới các khả năng thay đổi ở Triều Tiên.
Xét tới cơ cấu quyền lực hậu Kim, KINU đã đưa ra 3 khả năng: sự kế nhiệm quyền lực của con trai thứ 3 của Kim Jong-il là Jong-un; lãnh đạo tập thể của giới lãnh đạo quân sự; hay khả năng có một người cai trị độc lập mới thuộc quân đội.
Báo cáo trên cảnh báo rằng, sự bùng nổ của những thay đổi tại Triều Tiên có thể khiến Triều Tiên bắt đầu một cuộc chiến tranh khu vực trên bán đảo Triều Tiên.

HN (Theo Yonhap)
------------------------------


Nội dung trích dẫn(Hà Uyên @ Jan 20 2010, 10:50 AM) *
Trân trọng, Anh Thiên Sứ

Tôi luận, diễn biến này sẽ đến sớm hơn như bài báo đã viết. Cụ thể: năm Canh --> tháng Canh khởi, có nghĩa rằng, việc bắt đầu khởi từ tháng Canh Thìn - năm Canh Dần, thông qua hạn: Dương cửu - Bách lục như sau:

- Chu kỳ nhịp hệ số "rủi ro" hạn Dương cửu là 456, hạn Bách lục là 288: thực hiện phép đồng dạng:

456 / 2 = 228...............228 / 2 = 144
228 / 2 = 114...............144 /2 = 72
114 / 2 = 57..................72 / 2 = 36

Trị số hạn Bách Lục là 36, có thể là 36 ngày, 36 tháng, 36 năm. Tôi chọn là 36 tháng, tương đương với 3 năm. Nói như vậy là: "Đã tới số", như bài báo đã phân tích.

Nhưng, tôi chọn là: "chưa tới số", do bởi số Hội thông của quẻ Càn là 21, từ đây ta có: 21 + 36 = 57 --> số 57 này là trị số Nội quái của quẻ Ly, được gọi là một Tai Tuế, đây là số tới hạn của Dương Cửu. Vì vậy mà tôi định rằng: không thể vượt quá 21 tháng.

Anh tham khảo thêm và cho ý kiến.
Cảm ơn Anh.
Hà Uyên.
-------------------------------
Nội dung trích dẫn(Hà Uyên @ May 5 2010, 04:56 PM) *
Trân trọng, Anh Thiên Sứ

Tôi luận, diễn biến này sẽ đến sớm hơn như bài báo đã viết. Cụ thể: năm Canh --> tháng Canh khởi, có nghĩa rằng, việc bắt đầu khởi từ tháng Canh Thìn - năm Canh Dần, thông qua hạn: Dương cửu - Bách lục như sau:


http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...ded&start=0
---------------------------------------
Nội dung trích dẫn(Hà Uyên @ May 27 2010, 09:34 AM) *
Chào anh Thiên Sứ

Dự báo về Nam - Bắc Triều tiên, chúng ta bắt đầu từ ngày: Jan 20 2010, 10:00 AM, với tiêu đề thông tin:

"Sẽ có đảo chính tại Triều Tiên sau năm 2012?"
Thông tin dự báo:
- Tôi luận, diễn biến này, sẽ đến sớm hơn như bài báo viết. Cụ thể: năm Canh - tháng Canh khởi, có nghĩa rằng, việc bắt đầu từ tháng Canh Thìn - năm Canh Dần.
- Bính Tân tụ hợp, có tụ thì có tán, vậy thì khi nào thì tán (?). Cách mạng Xô viết tụ hợp 1916 - 1917. Kéo theo sự ảnh hưởng lớn với Đông Đức - Tây Đức, Nam Hàn - Bắc Hàn, ...v.v..., đến năm 1991 là năm Tân, thì cũng hoán tán.
- Sau Bính hợp Tân, thì đến Ất hợp Canh, vậy khi nào thì Ất Canh hoán tán. Từ tháng Nhâm Ngọ đến tháng Bính Tuất (150 ngày). Bính Tuất Thiên khắc Địa cung với Canh Thìn. Tháng 9 kiến Tuất: trong Tuất có dư khí Tân kim dụng sự 7 ngày, Bính hỏa mộ khố 5 ngày, vị chi là 12 ngày, rồi tiếp đến Mậu thổ dụng sự 18 ngày. Tháng 9 (Hàn lộ - Sương giáng).
- Tháng 9 Bính Tuất phối quẻ, được quẻ Phong Trạch Trung phu, việc bắt đầu từ tháng Canh Thìn phối quẻ được quẻ Thuần Cấn. Động 5 hào 1-2-3-4-5, duy có hào 6 là "tĩnh":

=>

- Hào 6 quẻ Trung phu: "Hàn âm đăng vu thiên, trinh hung". Tượng viết: "hà khả trường dã" (Tiếng chim kêu khi đang bay vang khắp trời, hư thanh này sao giữ được lâu dài.) Hư thanh nghe xa mà đức thành tín trung thực không được tiếp nối.
- Hào 6 quẻ Thuần Cấn: "Đôn cấn, cát"
- Nghiệm xét: trong 7 ngày đầu tháng 9, trọn làm tâm điểm (dư khí của Tân kim 7 ngày).

Anh Thiên Sứ tham khảo thêm.

Hà Uyên



-----------------------------------
KHẢO NGHIỆM THỐNG KÊ:

- Dự báo ngày 20/1/2010 giờ 08:50 (GMT + 7)

- Kết quả đã ứng ngày: 20/9/2010



Hàn Quốc không coi Bắc Triều Tiên là kẻ địch ?
20/09/2010 15:43

(VTC News) - Hãng thông tấn Yonhap ngày 20/9 đưa tin, nhiều khả năng sách trắng quốc phòng Hàn Quốc năm nay sẽ bỏ sử dụng cách gọi Bắc Triều Tiên là kẻ địch chủ yếu.

http://www.vtc.vn/311-262368/quoc-te/han-q...-la-ke-dich.htm



Hà Uyên