10 đại bí ẩn thế giới

Hiếm có câu chuyện nào có khả năng thu hút sự chú ý của chúng ta như những câu chuyện chưa được giải đoán.
Các mật mã, những bí ẩn và những tác phẩm nghệ thuật công cộng được mã hóa trêu chọc chúng ta bởi những tình tiết bí hiểm của nó: Tại sao thông điệp của chúng được mã hóa? Chúng có thể hàm chứa những đại bí mật nào? Bất chấp sự lao tâm khổ tứ của những sử gia giỏi nhất, những chuyên gia mật mã thông minh nhất và những kẻ săn tìm kho báu quyết tâm nhất, lịch sử đầy ắp những bí ẩn vẫn tiếp tục làm chúng ta bối rối cho đến nay. Những câu chuyện hư cấu, kiểu như những chuyện được mô tả trong cuốn “Mật mã Da Vinci” (The Da Vinci Code) và bộ phim “Kho báu quốc gia” (National Treasure) không có gì giống với những bí mật từ đời thực này. Dưới đây là danh sách 10 bí ẩn và mật mã chưa thể khám phá huyền bí nhất.

1. Bản viết tay Voynich

Được đặt theo tên của người bán sách cổ người Mỹ gốc Ba Lan Wilfrid M.Voynich đã mua nó vào năm 1912, “Bản viết tay Voynich” là cuốn sách dày 240 trang viết tỉ mỉ bằng một ngôn ngữ hoàn toàn không được biết đến.

Các trang sách cũng đầy những hình vẽ màu của các biểu đồ kỳ lạ, những hình ảnh của các sự kiện và cây cối không hề giống bất cứ loại nào đã biết, điều này càng làm cho cuốn sách thêm phần bí hiểm mà người ta không thể giải mã.

Không ai biết tác giả bản thảo viết tay này là ai, nhưng phân tích carbon phóng xạ đã cho thấy các trang bản thảo được thực hiện đâu đó vào giữa những năm 1404 và 1438. Bản thảo này đã được gọi là “Bản viết tay bí ẩn nhất thế giới”.

qp-tp-m

Có nhiều thuyết khác nhau về nguồn gốc và bản chất của bản thảo này. Một số cho rằng, đây là một dược điển, mô tả các vấn đề kiến thức y học khác nhau của thời trung cổ và sơ kỳ hiện đại. Nhiều bức vẽ các loại thảo mộc cũng khiến người ta phải giả định rằng, nó là cái gì đó đại loại như một cuốn sách giáo khoa dành cho các nhà giả kim thuật.Việc nhiều biểu đồ dường như vẽ các hiện tượng thiên văn, cùng với những phác họa sinh học không xác định được, thậm chí còn khiến một số nhà lý luận giàu tưởng tượng phỏng đoán cuốn sách có thể có nguồn gốc ngoài trái đất.
qp-tp-m01

Song hầu như tất cả các nhà lý luận đều thống nhất ở một điểm cho rằng, cuốn sách này khó có thể là trò đùa khi xét đến thời lượng, số tiền bạc và lao động hết sức tỉ mỉ cần để tạo ra nó.

2. Kryptos

Kryptos là một tác phẩm điêu khắc bí ẩn được khắc 1.800 ký tự chứa những thông điệp được mã hóa do nhà điêu khắc Mỹ Jim Sanborn tạo tác, được đặt ngay trước đại bản doanh Cục Tình báo trung ương Mỹ CIA ở Langley, Virginia vào năm 1990. Nó bí ẩn đến nỗi ngay chính cơ quan gián điệp khét tiếng thế giới CIA cũng không thể giải mã được hoàn toàn mật mã của nó.

qp-tp-m02

Tác phẩm điêu khắc này gồm bốn phần, và mặc dù ba phần trong số đó đã giải được, song mật mã của phần thứ tư gồm 97 hay 98 ký tự đến nay vẫn không thể bẻ khóa.

Năm 2006, Sanborn hé lộ rằng, trong phần thứ nhất có chứa manh mối để giải phá phần bốn, và năm 2010 ông lại tiết lộ thêm một manh mối khác: các ký tự 64-69 NYPVTT trong phần thứ tư giải mã ra có nghĩa là BERLIN.

May ra bạn sẽ có thể giải mã được nó chăng?

3. Các mật mã Beale

Các mật mã Beale là một bộ gồm ba đoạn văn bản mã được cho là tiết lộ vị trí của một trong những kho báu bị chôn giấu vĩ đại nhất trong lịch sử nước Mỹ với hàng ngàn bảng vàng, bạc và đá quý. Kho báu ban đầu do một người đàn ông bí ẩn tên là Thomas Jefferson Beale tìm được vào năm 1818 trong khi khai thác vàng ở Colorado.

qp-tp-m03

Trong ba đoạn mã, chỉ có đoạn thứ hai đã giải mã được. Điều thú vị là chính bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ lại là khóa mã. Đây là một chuyện lạ lùng đáng kinh ngạc khi mà Beale còn trùng tên với tác giả của bản Tuyên ngôn Độc lập.

Đoạn văn bản giải mã được chỉ ra địa điểm chôn kho báu là Bedford County, Virginia, nhưng vị trí chính xác của nó rõ ràng là được mã hóa trong một trong hai đoạn mã còn lại chưa thể giải phá.

Cho đến nay, những kẻ săn tìm kho báu vẫn đang lùng sục kỹ lưỡng (thường là bất hợp pháp) các sườn đồi của Bedford County để truy tìm khối của cải khổng lồ này.

4. Đĩa Phaistos

Bí ẩn của đĩa Phaistos là câu chuyện có vẻ giống như trong phim Indiana Jones. Được phát hiện bởi các nhà khảo cổ Italia Luigi Pernier vào năm 1908 trong những phế tích của cung điện Minos ở Faistos, trên đảo Crete của Hy Lạp, đĩa này được làm bằng đất sét nung và chứa những ký hiệu bí ẩn mà có thể là một dạng chữ tượng hình chưa được biết đến.

Người ta tin rằng nó đã được làm ra đâu đó vào thiên niên kỷ thứ hai trước Công nguyên.

qp-tp-m04

Một số học giả tin rằng, những chữ tượng hình này giống với các ký tự của Linear A và Linear B, những loại chữ viết từng được sử dụng ở Crete cổ đại. Vậy vấn đề là ở chỗ nào? Là ở chỗ Linear A không thể giải mã được.

Cho đến nay, đĩa Phaistos vẫn là một trong những bí ẩn nổi tiếng nhất của khảo cổ học.

5. Dòng chữ khắc ở Shugborough

Nhìn từ xa Đài tưởng niệm người chăn cừu (Shepherd’s Monument) thời thế kỷ 18 ở Staffordshire, nước Anh, bạn có thể nghĩ nó chẳng qua là sự tái hiện bằng điêu khắc của bức tranh nổi tiếng “Những người chăn cừu ở Arcadia” của Nicolas Poussin. Nhưng nhìn gần hơn, bạn sẽ thấy một chuỗi chữ cái kỳ lạ DOUOSVAVVM – một mật mã không thể giải phá đã hơn 250 năm.

qp-tp-m05

Và mặc dù không ai biết tác giả của mật mã này, một số người đồ rằng, mật mã có thể là một đầu mối do các hiệp sĩ dòng tu Đền Thánh để lại nhằm chỉ ra nơi tọa lạc của Chén Thánh.

Nhiều bộ óc vĩ đại nhất thế giới, trong đó có Charles Dickens và Charles Darwin, đã cố gắng để giải mã nhưng đều thất bại.

6. Vụ án Tamam Shud

Tamam Shud là một trong những bí ẩn lớn nhất của Australia. Nó xoay quanh một người đàn ông lạ được tìm thấy đã chết vào tháng 12/1948 trê bãi biển Somerton, Adelaide, Australia. Ngoài việc không thể nhận dạng người đàn ông, sự việc trở nên bí ẩn hơn khi một mảnh giấy nhỏ xíu với mấy từ “Tamam shud” được tìm thấy trong một cái túi bí mật trong chiếc quần dài của người đàn ông đã chết.

qp-tp-m06

Cụm từ này dịch ra có nghĩa là “hoàn thành” hoặc “kết thúc” và được sử dụng trên trang cuối của tuyển tập thơ “The Rubaiyat” của Omar Khayyam. Ngoài bí ẩn này, sau đó người ta còn tìm thấy một bản sao của “The Rubaiyat”, trong đó có một mật mã lạ viết nguệch ngoạc được cho là do người đàn ông đã chết này để lại.

Căn cứ nội dung bài thơ của Omar Khayyam, nhiều người cho rằng, thông điệp này là một thư tuyệt mệnh, nhưng đến nay nó vẫn chưa được giải phá, cũng như chính vụ án này.

7. Wow! Tín hiệu

Một đêm mùa hè năm 1977, Jerry Ehman, một tình nguyện viên của chương trình SETI (Search for Extraterrestrial Intelligence – một chương trình rộng lớn tìm kiếm các tín hiệu của trí thông minh ngoài trái đất), có thể là người đầu tiên đã nhận được một thông điệp có chủ ý từ hành tinh khác.

Trong khi quét các sóng vô tuyến điện từ vũ trụ sâu thẳm với hy vọng ngẫu nhiên bắt được một tín hiệu mang trong mình các dấu hiệu là nó được gửi bởi một chủng tộc có lý trí, Eman phát hiện thấy có sự đột biến trong các phép đo của mình.

qp-tp-m07

Tín hiệu kéo dài 72 giây – quãng thời gian tối đa mà thiết bị quét sóng của Ehman có thể đo được. Tín hiệu này to và dường như truyền từ một nơi mà con người chưa từng có mặt trước đó: từ một điểm trong chòm sao Sagittarius, gần ngôi sao có tên gọi Tau Sagittarii, cách trái đất 120 năm ánh sáng.

Ehman đã viết chữ “Wow!” trên bản in tín hiệu ban đầu, vì thế, nó được gọi là “Wow! Tín hiệu” (Wow! Signal).

Mọi nỗ lực một lần nữa bắt và định vị tín hiệu này đều thất bại, dẫn đến những cuộc tranh cãi lớn và sự bí ẩn về nguồn gốc và ý nghĩa của nó.

8. Những lá thư của tên cuồng sát Zodiac

Những lá thư của Zodia là một loạt 4 lá thư mã hóa mà người ta cho là được viết bởi Zodiac, tên giết người hàng loạt khét tiếng đã làm kinh hoàng dân chúng San Francisco vào nửa cuối thập niên 1960 và đầu thập niên 1970. Những lá thư này có lẽ được viết để chọc tức các nhà báo và cảnh sát, và tuy một bức thư đã giải mã được, nhưng 3 lá thư còn lại vẫn chưa thể giải phá.

qp-tp-m08

Danh tính của Zodia cũng không bao giờ được xác định lập, mặc dù từ thập niên 1970, người ta không còn thấy các vụ giết người của Zodiac.

9. Những tảng đá chỉ đường ở Georgia

Những tảng đá chỉ đường Georgia đôi khi được coi là “Stonehenge của nước Mỹ”, là một tượng đài bằng đá hoa cương được dựng lên ở Elbert County, bang Georgia vào năm 1979. Những tảng đá được khắc 10 điều răn “mới” cho “Kỷ nguyên trí tuệ” viết bằng 8 ngôn ngữ – Anh, Tây Ban Nha, Swahili, Hindi, Do Thái, Arab, Trung Quốc và Nga. Các tảng đá cũng được xếp đặt theo những tính toán thiên văn nhất định.

Mặc dù công trình không chứa các thông điệp mã hóa, song mục đích và nguồn gốc của nó vẫn bao trùm bí ẩn. Nó được xây dựng bởi người đàn ông có bí danh R.C. Christian mà danh tính thật cuối cùng vẫn không thể xác định chính xác.

qp-tp-m09

Trong 10 điều răn này, điều răn thứ nhất có lẽ là gây tranh cãi nhất: “Hãy giữ dân số nhân loại ở mức dưới 500 triệu trong sự cân bằng vĩnh cửu với thiên nhiên”. Nhiều người cho rằng, đó là lời kêu gọi làm giảm dân số này tới con số đã nêu đó, còn những người chỉ trích “Những tảng đá chỉ đường” thì thậm chí còn kêu gọi phá hủy những tảng đá này. Một số người đam mê thuyết âm mưu thậm chí còn cho rằng, chúng được tạo ra bởi “Mật hội Lucifer” vốn kêu gọi một trật tự thế giới mới.

10. Rongorongo

Rongorongo là một hệ những ký hiệu bí ẩn được chạm vẽ trên các đồ tạo tác tìm thấy trên đảo Phục sinh. Nhiều người cho rằng, chúng đại diện cho một hệ chữ viết hay chữ viết nguyên thủy đã thất truyền, và có thể là một trong ba hay bốn hệ chữ viết được phát minh độc lập trong lịch sử nhân loại.

qp-tp-m010

Các ký hiệu đến nay vẫn chưa thể giải mã, và ý nghĩa thực sự của chúng – mà một số người cho là có chứa những manh mối về số phận của một nền văn minh đã biến mất từng xây dựng nên những bức tượng trên đảo Phục Sinh – có thể bị mất đi mãi mãi.

qp-tp-m011

Hai ngôi sao lùn cổ xưa nhất trong vũ trụ

.

Xác định hai ngôi sao lùn cổ xưa nhất trong vũ trụ - Tin180.com (Ảnh 1)




Sẽ có Luật Giáo dục quốc phòng - an ninh

Giáo dục quốc phòng - an ninh nhằm trang bị kiến thức cơ bản về quốc phòng - an ninh và kỹ năng quân sự cần thiết, góp phần đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đây là một trong những nội dung tại dự thảo Luật Giáo dục quốc phòng - an ninh do Bộ Quốc phòng chủ trì soạn thảo.

Dự thảo quy định cụ thể về giáo dục quốc phòng - an ninh trong nhà trường. Theo đó, Giáo dục quốc phòng - an ninh cho học sinh tiểu học, trung học cơ sở được thực hiện theo các nội dung đã có trong chương trình giáo dục, kết hợp với hoạt động ngoại khóa.

Giáo dục quốc phòng - an ninh là môn học chính khóa trong chương trình giáo dục trung học phổ thông; chương trình đào tạo trình độ trung cấp chuyên nghiệp, trung cấp nghề, cao đẳng nghề, cao đẳng, đại học của nhà trường thuộc hệ thống giáo dục quốc dân; đồng thời là môn học chính khóa trong chương trình giáo dục các trường của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội.

Bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh là một trong những tiêu chuẩn bắt buộc

Dự thảo Luật Giáo dục quốc phòng - an ninh quy định rõ: Học tập, nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ quốc phòng - an ninh là nghĩa vụ và quyền lợi của cán bộ, đảng viên.

Được bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh là một trong những tiêu chuẩn bắt buộc đối với cán bộ, đảng viên, là một trong những tiêu chí để xem xét bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan, tổ chức nhà nước.

Trường hợp đặc biệt, người được bổ nhiệm chưa bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh phải bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh tương ứng với chức vụ, chức danh được bổ nhiệm.

Đối tượng bồi dưỡng bao gồm: 1- Cán bộ, công chức được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ hoặc được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong các cơ quan, tổ chức nhà nước ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; 2- Cán bộ lãnh đạo quản lý trong các doanh nghiệp nhà nước; 3- Viên chức quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập; 4- Cán bộ, công chức cấp xã; những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã được hưởng một số chế độ, chính sách...

Bên cạnh đó, dự thảo còn quy định bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh cho: Người quản lý doanh nghiệp ngoài nhà nước, đơn vị sự nghiệp ngoài công lập, người làm quản lý nghiệp vụ, trưởng, phó các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước, đơn vị sự nghiệp ngoài công lập.

Đối tượng bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước, đơn vị sự nghiệp ngoài công lập khi bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh được hưởng nguyên lương, phụ cấp, hỗ trợ phương tiện hoặc thanh toán tiền tàu, xe một lần đi, về và hỗ trợ tiền ăn do doanh nghiệp ngoài nhà nước, đơn vị sự nghiệp ngoài công lập bảo đảm. Khoản kinh phí này được tính vào các khoản chi, được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp ngoài nhà nước, đơn vị sự nghiệp ngoài công lập.

Ngoài ra, dự thảo Luật còn quy định về phổ biến kiến thức quốc phòng – an ninh cho cho người dân ở miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa tập trung vào người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số, chủ hộ tàu, thuyền hoạt động dài ngày trên biển; chủ hộ gia đình trên biên giới, trên đảo, người lao động ở các vùng biên giới, hải đảo.

Toàn văn Dự thảo Luật Giáo dục Quốc phòng - An ninh

Theo Chinhphu.vn


Quy định về những điều đảng viên không được làm

Dvt.vn giới thiệu toàn văn Quy định số 47-QĐ/TW về những điều đảng viên không được làm của Ban chấp hành Trung ương Đảng.

Ban chấp hành Trung ương đã ban hành Quy định số 47-QĐ/TW về những điều đảng viên không được làm. Dvt.vn giới thiệu toàn văn Quy định này.

- Căn cứ Điều lệ Đảng;


- Căn cứ Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;


- Căn cứ Quy chế làm việc của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và Ban Bí thư khoá XI;


- Để tăng cường kỷ cương, kỷ luật của Đảng và giữ gìn phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, tính tiền phong gương mẫu của đảng viên, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng,


BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG QUY ĐỊNH


Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam; cùng với việc gương mẫu chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và pháp luật của Nhà nước, các quy định của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội mà mình là thành viên, phải chấp hành nghiêm chỉnh những quy định cụ thể của Đảng về những điều đảng viên không được làm.


I- Những điều đảng viên không được làm


1- Nói, làm trái hoặc không thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quyết định, kết luận của Đảng; làm những việc mà pháp luật không cho phép.


2- Cung cấp, để lộ, làm mất hoặc viết bài, đăng những thông tin, tài liệu bí mật của Đảng và Nhà nước hoặc những việc chưa được phép công bố; tàng trữ, tuyên truyền, tán phát hoặc xúi giục người khác tuyên truyền, tán phát thông tin, tài liệu dưới mọi hình thức để truyền bá những quan điểm trái với đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước.


3- Viết bài, cho đăng tải tin, bài sai sự thật, vu cáo, bịa đặt hoặc quy kết về tội danh, mức án trước khi xét xử, không đăng tải ý kiến phản hồi, cải chính theo quy định. Sáng tác, sản xuất, tàng trữ, tán phát các tác phẩm, công trình văn học, nghệ thuật không lành mạnh, mang tính kích động gây ảnh hưởng xấu trong xã hội; tán phát bài viết, hồi ký không đúng sự thật.


4- Tổ chức, xúi giục, tham gia các hoạt động bè phái, chia rẽ, cục bộ gây mất đoàn kết nội bộ. Lợi dụng việc phát ngôn, nhân danh việc phản ánh, góp ý kiến đối với Đảng để đả kích, vu cáo, xúc phạm, nhận xét, đánh giá tuỳ tiện đối với người khác. Đe doạ, trù dập, trả thù người tố cáo, phê bình, góp ý.


5- Tố cáo mang tính bịa đặt; viết đơn tố cáo giấu tên, mạo tên. Cùng người khác tham gia viết, ký tên trong một đơn tố cáo. Tổ chức, tham gia kích động, xúi giục, mua chuộc, cưỡng ép người khác khiếu nại, tố cáo.


Cố ý gửi hoặc tán phát đơn khiếu nại, tố cáo đến những nơi không có thẩm quyền giải quyết.


6- Tổ chức, tham gia các hội trái quy định của pháp luật; biểu tình, tập trung đông người gây mất an ninh, trật tự.


7- Đảng viên (kể cả cấp uỷ viên và đảng viên là cán bộ diện cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ quản lý) tự ứng cử, nhận đề cử và đề cử các chức danh của tổ chức nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội (theo quy định phải do tổ chức đảng giới thiệu) khi chưa được tổ chức đảng có thẩm quyền cho phép.


8- Quan liêu, thiếu trách nhiệm, bao che, báo cáo sai sự thật, lạm quyền, nhũng nhiễu khi thực hiện nhiệm vụ.


Thiếu trách nhiệm để cơ quan, đơn vị, địa phương do mình trực tiếp phụ trách xảy ra tình trạng mất đoàn kết, tham nhũng, buôn lậu, lãng phí, thất thoát tài sản và các tiêu cực khác.


Có hành vi để bố, mẹ, vợ (chồng), con, anh, chị, em ruột thực hiện các dự án, kinh doanh các ngành nghề thuộc lĩnh vực hoặc đơn vị do mình trực tiếp phụ trách trái quy định.


Biết mà không báo cáo, phản ảnh, xử lý các hành vi tham nhũng; không thực hiện các quy định về bảo vệ người chống tham nhũng.


9- Làm trái quy định trong những việc : quản lý nhà, đất, tài sản, vốn, tài chính của Đảng và Nhà nước; huy động vốn và cho vay vốn tín dụng; thẩm định, phê duyệt, đấu thầu dự án; thực hiện chính sách an sinh xã hội, cứu trợ, cứu nạn; công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, các quy định trong hoạt động tố tụng.


10- Can thiệp, tác động đến tổ chức, cá nhân để bản thân hoặc người khác được bổ nhiệm, đề cử, ứng cử, đi học, đi nước ngoài trái quy định.

Lợi dụng chức vụ được giao để chiếm dụng, vay, mượn tiền, tài sản của đối tượng trực tiếp quản lý trái quy định.

Ép buộc, mua chuộc cá nhân hoặc tổ chức để bao che, giảm tội cho người khác.

11- Chủ trì, tham mưu, đề xuất, tham gia ban hành các văn bản trái quy định. Tạo điều kiện hoặc có hành vi để bố, mẹ, vợ (chồng), con, anh, chị, em ruột lợi dụng chức vụ, vị trí công tác của mình nhằm trục lợi.

12- Đưa, nhận, môi giới hối lộ; môi giới làm thủ tục hành chính hoặc lợi dụng vị trí công tác để môi giới hưởng thù lao dưới mọi hình thức trái quy định. Đưa, nhận hoa hồng hoặc môi giới đưa, nhận hoa hồng trái quy định.


13 - Báo cáo, lập hồ sơ, kê khai lý lịch, lịch sử bản thân không trung thực; kê khai tài sản, thu nhập không đúng quy định; mở tài khoản ở nước ngoài trái quy định; tham gia hoạt động rửa tiền.


14 - Tổ chức du lịch, tặng quà, giải trí để lợi dụng người có trách nhiệm dẫn đến việc ban hành quyết định sai, có lợi riêng cho bản thân hoặc tổ chức, cơ quan, doanh nghiệp mà mình tham gia.


15- Dùng công quỹ để thăm viếng, tiếp khách, tặng quà, xây dựng công trình, mua sắm trang thiết bị, phương tiện làm việc, đi lại, thông tin liên lạc vượt quá tiêu chuẩn, định mức hoặc trái quy định.


Chiếm giữ, cho thuê, cho mượn tài sản, cho vay quỹ của Nhà nước, cơ quan, đơn vị, tổ chức được giao quản lý, sử dụng trái quy định.


16- Tự mình hoặc có hành vi để bố, mẹ, vợ (chồng), con, anh, chị, em ruột đi du lịch, tham quan, học tập, chữa bệnh ở trong nước hoặc ngoài nước bằng nguồn tài trợ của tổ chức trong nước hoặc tổ chức, cá nhân nước ngoài khi chưa được phép của cơ quan có thẩm quyền.

17- Tổ chức, tham gia đánh bạc dưới mọi hình thức; cho vay trái quy định của pháp luật; sử dụng các chất ma tuý; uống rượu, bia đến mức bê tha và các tệ nạn xã hội khác.

Vi phạm đạo đức nghề nghiệp; có hành vi bạo lực trong gia đình, vi phạm chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình, sống chung với người khác như vợ chồng; bản thân hoặc để con kết hôn với người nước ngoài trái quy định.

18- Mê tín, hoạt động mê tín (đốt đồ mã, hành nghề đồng cốt, thầy cúng, thầy bói). Lập đền, miếu, nơi thờ tự của các tôn giáo trái phép; ủng hộ hoặc tham gia tôn giáo bất hợp pháp; tham gia các tổ chức do tôn giáo lập ra chưa được cấp có thẩm quyền cho phép. Lợi dụng tín ngưỡng để trục lợi.


19- Tổ chức việc cưới, việc tang, các ngày lễ, tết, sinh nhật, kỷ niệm ngày cưới; mừng thọ, mừng nhà mới, lên chức, lên cấp, chuyển công tác xa hoa, lãng phí hoặc nhằm trục lợi.

II- Tổ chức thực hiện và xử lý vi phạm

1- Giao Ủy ban Kiểm tra Trung ương hướng dẫn thực hiện Quy định này và giúp Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư kiểm tra, giám sát việc thực hiện.

Các cấp uỷ đảng có trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện Quy định và định kỳ hằng năm báo cáo với cấp uỷ cấp trên tình hình thực hiện Quy định qua uỷ ban kiểm tra của cấp uỷ cấp trên.
Trong quá trình thực hiện có vấn đề thấy cần bổ sung, sửa đổi thì báo cáo Ban Chấp hành Trung ương xem xét, quyết định.

2- Đảng viên vi phạm Quy định này phải được xử lý công minh, chính xác, kịp thời theo quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước.

3- Quy định này thay thế Quy định số 115-QĐ/TW, ngày 07-12-2007 của Bộ Chính trị (khóa X) về những điều đảng viên không được làm, có hiệu lực từ ngày ký và phổ biến đến chi bộ để thực hiện.

http://dvt.vn/201202290927730p100c101/quy-dinh-ve-nhung-dieu-dang-vien-khong-duoc-lam.htm

Từ chuyện “tính” người đến việc trị nước

Nhân chi sơ tính bản...?

Hồi còn chưa có chút khái niệm gì về triết học, tôi đã nhiều lần nghe người lớn nói câu: “Nhân chi sơ tính bản thiện”. Và được nghe giải thích đại khái: con người sinh ra vốn tính thiện hoặc: bản chất con người là thiện. Sau này lên đại học, làm quen với triết học Trung Hoa, tôi mới rõ thêm ít nhiều về thuyết tính thiện mà “cha đẻ” là Mạnh Tử và biết thêm còn có ông Tuân Tử với quan niệm trái nghịch: con người ta vốn tính ác.


Thầy Mạnh bảo rằng: “Ai cũng có lòng thương người (có người dịch là “lòng chẳng nỡ” (*) )... Sở dĩ tôi bảo vậy là vì có chứng cứ. Nếu thình lình thấy một đứa nhỏ sắp ngã xuống giếng ai cũng có lòng bồn chồn thương xót...” (**) . Đó là minh chứng cho một trong tứ đoan (bốn mối - hay có thể gọi nôm na là mầm thiện) của tính thiện mà nếu ai không có thì không phải là người, bao gồm: lòng trắc ẩn (thương xót), lòng tu ố (thẹn, ghét), lòng từ nhượng (kính nhường), lòng thị phi (biết phải trái).


Bốn mối thiện ấy vốn có, không phải do bên ngoài hun đúc nên, gọi là lương tri, lương năng. Từ đó dẫn đến tứ đức là: nhân, lễ, nghĩa, trí. “Lòng trắc ẩn là đầu mối của nhân; lòng tu ố là đầu mối của nghĩa; lòng từ nhượng là đầu mối của lễ; lòng thị phi là đầu mối của trí. Người ta có bốn mối ấy như là có tứ chi vậy”. Nhưng Mạnh Tử cũng không nghĩ đơn giản đến mức tuyệt đối hóa tính thiện nơi con người. Ông bảo rằng con người cũng có những cái bất thiện, xấu xa chẳng khác mấy so với cầm thú, nhưng cái đó không phải là bản chất. Chỉ cái thiện mới được xem là tính người.

Nhưng Tuân Tử và một số triết gia khác sau ông không tin như vậy. Quan niệm của họ hoàn toàn đối nghịch: con người vốn tính ác.


Thầy Tuân khẳng định: “Tính con người, sinh ra là hiếu lợi, thuận theo tính đó thì sinh ra tranh đoạt lẫn nhau mà sự từ nhượng không có; sinh ra lòng đố kỵ, thuận theo tính đó thì sinh ra tàn tặc mà lòng trung tín không có; sinh ra có lòng ham muốn của tai mắt, có lòng thích về thanh sắc, thuận theo tính đó thì thành ra dâm loạn mà lễ nghĩa văn lý không có. Như thế thì theo cái tính của người ta, thuận cái tính của người ta thì tất sinh ra tranh đoạt, phạm vào cái phận (tức là quyền lợi của nhau), làm loạn cái lý mà mắc lỗi tàn bạo”.


Nhân, nghĩa, lễ, trí, theo thầy Tuân là “nhân vi”, do con người đặt ra.


Như vậy, thầy Mạnh, thầy Tuân - ai đúng? Bản tính con người thật ra là gì? Câu hỏi đó vượt quá sức một cậu sinh viên mới tập tò học triết như tôi lúc ấy. Bảo rằng mầm thiện và tính ác của con người vốn có sẵn và do trời phú, như vậy chẳng khác nào đưa ra một định đề buộc phải tin mà không giải thích. Triết lý có nên chỉ dừng lại ở đó? Hay phải chăng nên suy nghĩ theo chiều hướng “tính không thiện không ác” của Cáo Tử hay “tính siêu thiện ác” như các triết gia phái Lão Trang...?

Dù lý tưởng như thầy Mạnh hoặc thực tế như thầy Tuân thì điều thú vị là cả hai cuối cùng cũng gặp nhau ở một điểm: con người có thể (và cần) sửa mình để ngày càng tốt hơn, hoàn thiện hơn. Và đến đây thì cả hai triết gia lại quay lại với bản chất xã hội của con người (dùng giáo dục, lễ nhạc do xã hội tạo nên để cải tính) - điều mà khi luận bàn về căn nguyên tính thiện - tí nhác họ chỉ lướt qua.
Thêm một điều đáng chú ý về cách thức tư duy. Các vị thầy thường xem xét vấn đề trên bình diện đạo đức trong khi đang luận bàn về bản chất con người, và bởi vậy rất dễ rơi vào vòng nhị nguyên đối đãi “thiện - ác”, mặc dù Mạnh Tử vốn không tuyệt đối hóa quan niệm tính thiện của mình. Liệu ta có thể thoát ra khỏi nếp suy luận hằn quá sâu đó để tránh xu hướng cực đoan?
Câu chuyện “cải tính”...

Đọc thêm sử sách mới hay rằng Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử hay phần đông triết gia Trung Hoa thời xưa đều ấp ủ giấc mơ cứu đời, muốn đem học thuyết của mình áp dụng vào cuộc sống để “trị quốc, bình thiên hạ” bởi thời mà họ đang sống là thời nhiễu nhương, loạn lạc (thời Xuân thu Chiến quốc).


Do vậy, một mặt họ không quên bàn luận những vấn đề siêu hình, thậm chí thần bí, nhưng mặt khác, họ lại hướng tư tưởng của mình vào những vấn nạn nhân sinh, và triết học của họ đậm màu đạo đức chính trị. Cho nên vấn đề bản chất con người, với họ, cần lược quy về bình diện đạo đức (tính thiện - tính ác, tốt - xấu...) để có thể tìm được giải pháp khả thi, thay vì những thuyết lý cao siêu mà khó áp dụng vào thực tế.


Điều này được minh chứng khi ta biết rằng, dù lý tưởng như thầy Mạnh hoặc thực tế như thầy Tuân thì điều thú vị là cả hai cuối cùng cũng gặp nhau ở một điểm: con người có thể (và cần) sửa mình để ngày càng tốt hơn, hoàn thiện hơn. Và đến đây thì cả hai triết gia lại quay lại với bản chất xã hội của con người (dùng giáo dục, lễ nhạc do xã hội tạo nên để cải tính) - điều mà khi luận bàn về căn nguyên tính thiện - tính ác họ chỉ lướt qua.


Mạnh Tử chủ trương tính thiện cho nên theo ông, con người cần khuếch sung bốn mối đó bằng cách làm điều nhân nghĩa, giảm bớt lòng ham muốn (quả dục), nuôi dưỡng tâm tính (tồn tâm, dưỡng tính). Tâm vốn là tốt, cho nên: “Quân tử khác người ta chỉ ở chỗ giữ cho còn cái tâm mà thôi. Quân tử lấy nhân giữ cho còn cái tâm, lấy nghĩa giữ cho còn cái tâm”. Tuân Tử chủ trương tính ác, nhưng ông vẫn khẳng định rằng có thể làm thay đổi cái tính ấy (“kiểu tính” hay “cải tính”) để trở nên người tốt, thậm chí “người ngoài đường cũng có thể trở thành thánh nhân”. Cải tính bằng lễ nghĩa, bằng cách hướng dẫn lòng dục của con người (đạo dục), bằng phương pháp “tư thiện, tích thiện” - tức là suy nghĩ về điều thiện, tích chứa điều thiện, việc thiện, sửa lại cái tính của mình cho ngày càng hoàn thiện.


Và giấc mơ trị quốc


Biết tính người còn là để đề ra phương cách trị quốc. Mạnh Tử kế thừa và phát triển quan niệm của Khổng Tử, cho rằng dùng giáo dục để uốn nắn dân theo đúng đạo nghĩa - giáo hóa; dùng lễ, nhạc để sửa tính tình, phong tục, khoan hòa với dân - đó là nhân trị. Tuân Tử đề cao lễ hơn nhân - lễ để giữ tôn ti, đẳng cấp, trật tự xã hội - và coi trọng hình pháp, tuy nhiên cũng cho rằng không nên quá lạm hình pháp, khác với phái Pháp gia sau này.


Thực tế lịch sử cho thấy, thầy Khổng, thầy Mạnh bôn ba khắp nơi để hành đạo, rao giảng đến cạn lời mà chẳng ông vua nào theo, lấy đức nhân để giáo hóa dân. Trong khi đó, tư tưởng của thầy Tuân lại bị đẩy đến chỗ biến dạng cực đoan bởi những người theo phái Pháp gia như Hàn Phi Tử (mà người ta thường ví như một Machiavelli của phương Đông) để trở thành pháp trị và được các chính trị gia như Lý Tư đem ra thực hành triệt để; khi ấy nó biến thành một thứ chủ nghĩa tôn quân đến mù quáng với lối cai trị bằng mọi thủ đoạn, bằng hình pháp hà khắc, dẫn đến cái họa chôn Nho đốt sách thời Tần. Sau này, giới nho sĩ ít nhắc tới thuyết của Tuân Tử cũng chính vì vậy.


Từ cái vòng nhị nguyên này dẫn tới cái vòng nhị nguyên khác. Nhân trị - pháp trị, một nhát phân đôi tưởng chừng phân minh, hợp lẽ, hóa ra giản lược, phiến diện. Hơn hai ngàn ba trăm năm sau Mạnh Tử, Tuân Tử, qua bao sóng gió thăng trầm của lịch sử, qua bao cuộc khám phá và các đợt khai sáng tư tưởng, một con người lương thiện bình thường cũng hiểu rõ rằng bản chất con người phức tạp hơn nhiều, không phải thiên thần cũng chẳng là quỷ dữ.


Và trên thế gian này chẳng xã hội nào - ngay cả những xã hội có chỉ số hạnh phúc cao nhất hiện nay - mà không có luật hình, không có cảnh sát, nhà tù. Cũng như, chẳng có triều đại nào tồn tại lâu dài mà chỉ dựa lối cai trị độc đoán, hà khắc với đủ thứ hình phạt tàn khốc.


Luật pháp xuất hiện là nhằm minh xác và bảo vệ những giá trị nhân bản được xã hội thừa nhận, là đưa con người vào đúng lề lối cư xử thuận hòa, bảo đảm trật tự, an bình cho xã hội phát triển. Cai trị trên nền tảng luật pháp như vậy thì chẳng mấy khác biệt với tư tưởng nhân trị.


Vấn đề cốt yếu chỉ là ở chỗ, luật pháp ấy được đặt ra vì ai và được thực thi như thế nào: nghiêm chỉnh hay hình thức, nửa vời; để bảo vệ quyền lợi của đại đa số hay chỉ tạo thuận lợi cục bộ, cho các nhóm đặc quyền đặc lợi; có bình đẳng cho mọi người hay vô hiệu đối với giới quyền thế. Nói: nhân không khỏi pháp, trong pháp có nhân là vậy.


Mạnh Tử, Tuân Tử đều là hai triết gia lớn trong lịch sử triết học Trung Hoa. Tuân Tử có cái lý của mình. Còn với thuyết tính thiện, Mạnh Tử được coi là một triết gia lạc quan, có cái nhìn lý tưởng (hay rộng lượng?) về con người. Với đầu óc duy lý, sự đánh giá ấy không hẳn chỉ là lời khen. Riêng với tôi thì Mạnh Tử gần gũi hơn và tôi đã học được nhiều điều từ ông.

http://bee.net.vn/channel/1984/201202/Tu-chuyen-tinh-nguoi-den-viec-tri-nuoc-1825914/

Bệnh lý cột sống và xương khớp

Cột sống được gắn kết xen kẽ bởi các đốt sống và đĩa đệm mà trong đó đĩa đệm đóng vai trò như bộ phận giảm sốc, với những biểu hiện thường gặp và các yếu tố rủi ro dẫn đến nguy cơ mắc bệnh cột sống.

Khi lão hóa, khả năng đàn hồi của đĩa đệm giữa các đốt sống giảm dần trở nên dễ vỡ và một số bộ phận của đốt sống phát triển hơn mức bình thường. Vì vậy, đĩa đệm mất khả năng giảm sốc, gây áp lực và chèn ép lên tủy và nhánh rễ thần kinh tủy. Tổn thương này có thể dẫn đến biểu hiện mất cảm giác, yếu ớt và mất cân bằng. Tuỳ theo khu vực bị chèn ép mà biểu hiện sẽ khác nhau. Tuỳ thuộc vào mức độ chèn ép bộ phận bị chèn ép có thể mất một phần hoặc toàn bộ chức năng.

Một số biểu hiện thường gặp của tình trạng trên như: Cảm giác yếu và mất sức ở các chi; mất cảm giác; thay đổi về chức năng phản xạ; mất khả năng kiểm soát bàng quang (són tiểu), đại tiện (són phân); rối loan cương dương; liệt; đau lưng; đau cổ.

Các yếu tố rủi ro dẫn đến nguy cơ mắc bệnh cột sống: Thường khuân vác nặng, cuối gập người; lão hoá dẫn đến thoái hóa; chấn thương cột sống (thoát vị đĩa đệm); chiều cao; béo phì (tăng áp lực lên các đĩa đệm); hẹp ống sống; hút thuốc (khói thuốc làm giảm hoạt tính của đĩa đệm).

Theo thời gian, các khớp bị ảnh hưởng do sự biến đổi trong sụn và trong mô liên kết. Sụn bên trong khớp bắt đầu mỏng dần và các thành phần của sụn (proteoglycan) bắt đầu thay đổi, tác động đến sự dẻo dai và khiến chúng dễ bị tổn thương. Ở một số bệnh nhân, bề mặt của khớp không trượt lên nhau một cách dễ dàng theo biến đổi của quá trình lão hoá. Quá trình này có thể dẫn đến viêm xương khớp. Mặt khác, các khớp cũng cứng hơn vì mô liên kết trong các dây chằng, gân trở nên sơ cứng và giảm độ đàn hồi. Những biến đổi này làm cho các chuyển động của khớp bị hạn chế.

Đối với một số khớp (như khớp gối), dây chằng (bao quanh và hỗ trợ khớp) thường bị giãn khiến khớp không ổn định. Những vận động đòi hỏi sự di chuyển và va chạm các khớp (như đứng, leo cầu thang, đi bộ...) có thể gây đau nhói. Diễn biến lâu dài sẽ làm hao mòn và thâm chí phá huỷ cấu trúc khớp do sự cọ sát và viêm xương khớp. Trường hợp này cần phải thay khớp, phổ biến là khớp gối và khớp háng.

Viêm xương khớp thường ảnh hưởng đến cột sống mà đau lưng là triệu chứng phổ biến nhất. Thông thường, các đĩa đệm hoặc các khớp bị tổn thương trong cột sống gây đau nhẹ và cứng. Tuy nhiên, viêm xương khớp ở cổ và thắt lưng có thể gây tê, đau và suy nhược ở cánh tay, hoặc chân nếu xương phát triển quá mức chèn lên các dây thần kinh. Xương phát triển quá mức trong ống sống ở thắt lưng (chứng hẹp tủy sống vùng thắt lưng) sẽ gây chèn ép lên các dây thần kinh trước khi các dây thần kinh ra khỏi ống tủy sống truyền xuống chân. Sự chèn ép này có thể gây ra đau chân sau khi đi bộ.


http://www.blogger.com/post-create.g?blogID=1340325182161509174

Sử dụng wifi trong phòng ngủ gây ung thư?

Việc dùng sóng wifi trong phòng ngủ có ảnh hưởng tới sức khoẻ không?

Ông Dương Minh Trí, Phòng ứng dụng Điện - Điện tử, Viện Vật lý TPHCM cho biết: Sóng điện thoại di động, sóng wifi, lò vi sóng, ra đa... có tần số trên 2GHz. Trong dải sóng cao tần này quy định ngưỡng cho phép được tính theo W/m2.
Có một số quy định phổ thông như sau:

Trong phòng ngủ < 0,1mW/m2; Trong nhà < 1mW/m2; Ngoài trời < 10mW/m2. Thực tế, chúng tôi đã đo nhiễu điện từ trường ngay bên dưới các cột ăng ten trung chuyển tín hiệu điện thoại di động, cách chân cột khoảng vài mét cho thấy công suất sóng điện từ có nơi trên 2.000mW/m2 hay vô cực (máy đo không thể chỉ thị được nữa!).

Trị số này lớn gấp nghìn đến triệu lần ngưỡng cho phép bên trong nhà là 1mW/m2 theo quy định một số nước trên thế giới.

Các triệu chứng do nhiễu điện từ trường ảnh hưởng tới sức khoẻ con người như gây rối loạn nhịp sinh học, hệ thống miễn dịch và làm hạ thấp mức melatonin trong cơ thể.

Sự thông tin giữa các tế bào với nhau và hệ thống thần kinh bị điện từ trường tác động mạnh mẽ. Cơ chế sinh ra ung thư do điện từ trường cũng tương tự như các tia phóng xạ, hiệu ứng ion hóa làm biến dị gen và sinh ung thư...

Do đó, vì an toàn sức khoẻ chúng ta nên ưu tiên dùng điện thoại bàn thay vì điện thoại di dộng. Trong phòng ngủ hay phòng trẻ em tránh dùng internet không dây.

Đồng thời, không nên cho xây dựng các cột ăng ten này trực tiếp trên các mái nhà người dân.

http://bee.net.vn/channel/1994/201202/Su-dung-wifi-trong-phong-ngu-1825322/



Thẳng thắn nhìn nhận thực trạng trong Đảng

Đó là nhận định của ông Trần Trọng Tân - nguyên ủy viên Trung ương Đảng, nguyên trưởng Ban Tư tưởng văn hóa trung ương - về nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” của Hội nghị Trung ương 4 khóa XI.


Ông Trần Trọng Tân - Ảnh: M.Đức

- Ông Trần Trọng Tân nói:

Có ý kiến cho rằng Nghị quyết Trung ương 4 lần này không có gì mới, có mới chăng là chờ xem những giải pháp đề ra trong nghị quyết sẽ được triển khai vào thực tiễn như thế nào. Tôi không đồng tình với nhận định này. Theo tôi, Nghị quyết Trung ương 4 có nhiều điểm mới. Đó là sự nhìn nhận thẳng thắn thực trạng mọi mặt trong Đảng, chọn trúng ba vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay, trong đó đã coi việc ngăn chặn “một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống...” lên hàng đầu. Đó là đã chỉ rõ nguyên nhân và đề ra một hệ thống giải pháp đồng bộ gồm bốn nhóm. Trong đó nhóm giải pháp về thực hiện gương mẫu của cấp trên được nêu lên hàng đầu là rất đúng. Trong mỗi nhóm đều có nêu ra những việc cụ thể. Đây là lần đầu tiên Trung ương Đảng có một nghị quyết “bắt mạch, kê toa” chi tiết như thế.

* Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng những hạn chế trong Đảng và những sai phạm trong một bộ phận đảng viên như thế đã tồn tại từ lâu, đến nay mới được nhìn nhận một cách công khai mà thôi?

- Đúng là những biểu hiện sai phạm không phải gần đây mới xuất hiện, nhưng vấn đề là đánh giá thực trạng đó như thế nào cho thật khách quan, không vơ đũa cả nắm. Nghị quyết thừa nhận có vi phạm về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống trong “một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp” cần được hiểu rằng phần lớn cán bộ, đảng viên vẫn tốt, vẫn kiên định tư tưởng chính trị, vẫn giữ được phẩm chất đạo đức tốt đang đóng vai trò chi phối trong sự lãnh đạo của Đảng. Chính nhờ đó mà công cuộc đổi mới đất nước giành được nhiều thắng lợi to lớn. Phải chăng trong công tác tư tưởng thời gian qua chưa làm cho dư luận xã hội nhìn nhận rõ sự thật này? Trung ương Đảng lần này báo động thực trạng tình hình nhưng trong tâm thế bình tĩnh. Chúng ta cũng cần đón nhận Nghị quyết Trung ương 4 một cách tỉnh táo để góp sức xây dựng Đảng, dứt khoát không để những kẻ xấu lợi dụng, bôi đen Đảng ta.

* Những giải pháp được Hội nghị Trung ương 4 đề ra trong nghị quyết, theo kinh nghiệm của ông, đâu là yếu tố đột phá và liệu có cần đề xuất thêm những giải pháp khác?

- Có lẽ khoan hãy bàn những giải pháp khác, trước mắt chúng ta mong Nghị quyết Trung ương 4 triển khai và thực thi thật khẩn trương.

Tôi còn nhớ tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đã từng thực hiện một cuộc kiểm điểm trong Bộ Chính trị rất hay. Tổng bí thư đã tự phê bình mình trước tập thể, chẳng những nói ưu điểm mà nêu ra cả khuyết điểm rất thẳng thắn rồi mới lần lượt đến các đồng chí khác. Cuộc kiểm điểm đó được ghi biên bản cụ thể và gửi cho các ủy viên Trung ương. Ngày nay các vị ủy viên Bộ Chính trị học và làm theo Bác Hồ như thế nào nếu được cho dân biết sẽ rất hay.

* Nghị quyết Trung ương 4 yêu cầu việc kê khai tài sản phải trung thực và được công khai ở nơi công tác, nơi cư trú. Ông có ý kiến gì về vấn đề này?

- Việc kê khai tài sản phụ thuộc vào sự trung thực của từng cán bộ, anh khai bao nhiêu thì biết bấy nhiêu nên công tác kê khai này chỉ mang tính hình thức, cho đủ thủ tục mà thôi. Trong thực tế, đối với những tài sản có được từ ăn cắp của công, ăn hối lộ... thì không ai chịu kê khai đâu.

Theo tôi, điều quan trọng nhất là phải đánh giá xem anh sống như thế nào, tác phong trong công việc ra sao, sinh hoạt, tiêu xài hằng ngày thế nào, quan hệ với bà con lối xóm ra sao. Cái này thì anh không thể che đậy được. Đạo đức, nhân cách, lối sống của anh ra sao, người dân với trăm nghìn mắt sẽ nhìn thấy hết. Vấn đề là làm sao vận động người dân, các đoàn thể chính trị - xã hội giám sát và thông tin cho Đảng, cho Nhà nước để kịp thời phát hiện, biểu dương được những gương tốt và góp phần chấn chỉnh, xử lý những cán bộ, đảng viên hư hỏng.

* Thưa ông, cũng có một thực tế khác là lâu nay vấn đề xử lý kỷ luật trong Đảng chỉ được công khai chừng mực nên chưa thuyết phục được người dân về tính nghiêm minh, từ đó chưa khuyến khích người dân chủ động tố giác vi phạm của cán bộ, đảng viên?

- Xử lý kỷ luật trong Đảng là một vấn đề quan trọng. Trước đây chúng ta quá thận trọng và nghĩ rằng đây chỉ là vấn đề mang tính nội bộ nên việc công khai thông tin ra bên ngoài có hạn chế. Một vài năm gần đây kết quả xử lý kỷ luật đảng viên, kể cả đảng viên giữ chức vụ quan trọng, được thông tin nhiều hơn đến người dân qua các phương tiện thông tin đại chúng. Việc thực hiện nghiêm minh kỷ luật trong Đảng và công khai trong toàn Đảng, toàn dân là điều mà chúng ta hướng tới.

* Không ít bạn trẻ hiện có suy nghĩ chỉ cần làm một quần chúng tốt mà không cần phấn đấu vào Đảng. Ông suy nghĩ như thế nào về vấn đề này?

- Không thể trách họ. Đối với giới trẻ, các bạn đoàn viên, thanh niên, đây là lực lượng đông đảo và rất quan trọng trong công cuộc xây dựng, bảo vệ đất nước. Cần làm cho họ hiểu được vai trò lãnh đạo của Đảng và họ có ý thức góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.

Theo tôi, tổ chức Đoàn Thanh niên cộng sản, các tổ chức tập hợp thanh niên cần tuyên truyền để thanh niên hiểu rằng được đứng trong hàng ngũ của Đảng là niềm vinh dự, được sống và đấu tranh vì lý tưởng cách mạng, vì độc lập cho đất nước, tự do hạnh phúc cho nhân dân là hạnh phúc lớn nhất của mỗi người.

Đối với việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, đừng để các bạn đoàn viên thanh niên đứng ngoài cuộc xem Đảng làm, mà tổ chức Đảng, Đoàn phải xây dựng cho mỗi bạn trẻ ý thức được trách nhiệm của mình trước Đảng, chủ động góp phần tham gia xây dựng Đảng.

V.H.QUỲNH - N.TRIỀU thực hiện
http://www.baomoi.com/Home/DoiNoi-DoiNgoai/tuoitre.vn/Thang-than-nhin-nhan-thuc-trang-trong-Dang/7843913.epi


Gần 800.000 người chết vì động đất trong thập niên qua

Trận động đất ngoài khơi Ấn Độ Dương ngày 26/12/2004 đã làm 227 nghìn người chết. Theo một nghiên cứu vừa được công bố trên tạp chí khoa học Lancet, trong thập kỷ vừa qua, tính đến hết năm 2010, các trận động đất trên thế giới đã trực tiếp, hoặc gián tiếp giết chết 780 nghìn người.


Ngoài ra, nghiên cứu còn nhấn mạnh là những cơn địa chấn trong suốt những năm từ 2001 đến 2010 đã ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của hơn 2 tỷ người trên hành tinh. Trận thiên tai thảm khốc nhất được ghi nhận là vụ động đất tại Haiti hôm 12/01/2010, với cường độ 7 độ Richter nó đã giết chết 316 nghìn nạn nhân. Trong khi đó, trận động đất có cường độ 9,1 độ Richter nổ ra trên Ấn Độ Dượng gây ra sóng thần kinh hoàng hồi tháng 12/2004 đã làm 227 nghìn người chết.

Đứng thứ ba trong quy mô hủy diệt là trận động đất tại tứ Xuyên, Trung Quốc, xảy ra hôm 12/5/2008. Cơn địa chấn này đã làm 87.500 người chết.

Bên cạnh những con số thống kê rùng rợn như trên, nghiên cứu được tạp chí Lancet công bố còn nhằm mục đích đánh động ý thức của các quan chức chính trị và các tổ chức cứu trợ một điều rằng, động đất là một thiên tai giờ đây phải được coi là ưu tiên hàng đầu trong nỗ lực bảo vệ cuộc sống và sức khỏe cộng đồng. Nghiên cứu cũng muốn cảnh báo cho giới y học về những bệnh lý mà họ sẽ phải xử lý trong các trường hợp thiên tai này.

Theo các nghiên cứu, trong các trận động đất, có khoảng 1/3 dân cư trong khu vực bị nạn thiệt mạng. Số nạn nhân tử vong do động đất thường gia tăng thành từng đợt liên tục kể từ khi nổ ra. Trước tiên là những người bị chết ngay khi nhà cửa bị đổ sập, vài giờ sau đó đến những người bị thương tử nạn. Đợt tử nạn thứ ba tiếp tục diễn ra sau khoảng vài ngày hoặc vài tuần sau đó.

Với những người sống sót thường thì các cơ quan nội tạng như gan, thận hay cột sống đều có vấn đề. Nghiên cứu nói trên cũng chỉ cho thấy, trẻ em là đối tượng dễ bị tổn thương, chiếm từ 25% đến 53% các bệnh nhân sau động đất.

Ngoài các chiến dịch khẩn cấp tìm kiếm cứu người sống sót, công tác cứu hộ còn phải đối phó với tình trạng bệnh dịch tràn lan ở những khu tập trung đông dân sau động đất, do các xác người chết bị vùi trong đống đổ nát gây ra.

Về lâu về dài, động đất còn gây tác động không nhỏ đến sức khỏe tâm thần cộng đồng. Đó là tình trạng suy sụp tinh thần ở những nạn nhân sống sót.

Cùng với việc gia tăng dân số thế giới và phát triển đô thị trong các vùng có nguy cơ, những nguy hiểm do động đất gây ra còn lớn hơn nhiều trong những năm tới. Đó là cảnh báo của các tác giả nghiên cứu nói trên. Hiện nay các thành phố nằm trong vùng có nguy cơ xảy ra động đất cao thì lại thường là các đô thị siêu lớn tập trung đông dân như Tokyo (32 triệu dân), Mêhico City (15 triệu ), Los Angeles (15 triệu), Istambul ( 9 triệu).


http://www2.vietinfo.eu/tu-lieu/gan-800000-nguoi-chet-vi-dong-d%E1%BA%A5t-trong-thap-nien-qua.html

Bí ẩn của sức mạnh tư tưởng – Yêu thương & thù hận

Tư tưởng của con người có thể sản sinh ra năng lượng rất lớn và nếu được sử dụng đúng cách, năng lượng này không chỉ có thể giúp cải thiện cuộc sống của mỗi cá nhân mà còn làm thay đổi cả thế giới.

Rất nhiều thí nghiệm khoa học đã chỉ ra rằng ý nghĩ của chúng ta có thể làm biến đổi thế giới vật chất. Thật may mắn là các thí nghiệm đó đều rất dễ làm, ai cũng tự làm được, và thú vị tuyệt vời!


Thí nghiệm 1: Cơm của chúng ta

Khi chúng ta gửi đến cơm một thông điệp dạng tiếng nói, chữ viết, âm nhạc, hình ảnh, … thì cơm đều nhận được thông điệp ấy. Cơm sẽ phản ứng lại tương ứng với thông điệp đó. Thông điệp tốt lành thì cơm cũng tốt lành, để 1 tháng vẫn thơm, không mốc hỏng. Thông điệp xấu ác thì cơm xấu, mới để vài ba ngày đã hôi thối, mốc đen.

Cách làm rất dễ:

Bí ẩn của sức mạnh tư tưởng - Yêu thương & thù hận (kỳ1) - Tin180.com (Ảnh 1)

Lấy một ít cơm, chia làm 2 phần bằng nhau, cho vào 2 lọ sạch giống nhau. Đổ lượng nước bằng nhau vào mỗi lọ rồi đậy lại. Dán nhãn một lọ bằng những từ ngữ tốt đẹp đại loại như “Tôi yêu bạn”, “Hạnh phúc”, “Kỳ diệu”, vv… Lọ cơm kia dán nhãn ghi những từ ngữ xấu kiểu như “Đồ ngu”, “Tao sẽ giết mày”, “Đau khổ”, vv… Mỗi ngày một lần nói với mỗi lọ cơm những lời như trên nhãn của nó (thường là 30 giây mỗi ngày), yêu cầu tỉnh táo, tập trung ý nghĩ.

Quan sát kết quả thu được sau một khoảng thời gian (thường là 2 tuần trở lên).

Các bạn sẽ thấy là: Thời gian hàng ngày nói với cơm càng nhiều, tư tưởng phát ra hướng về các lọ cơm càng mạnh, thí nghiệm càng kéo dài thì khác biệt càng rõ.

Có rất nhiều người khác nhau đã thử thực hiện thí nghiệm cơm như thế và các kết quả của họ đều như nhau.

Bí ẩn của sức mạnh tư tưởng - Yêu thương & thù hận (kỳ1) - Tin180.com (Ảnh 2)
Kết quả thu được sau hơn 1 tháng, trong thí nghiệm cơm do Tiến sỹ Masaru Emoto tiến hành

Thí nghiệm cơm này đã được rất nhiều gia đình và nhà giáo trên khắp thế giới thực hiện, với kết quả y hệt như nhau.



Một thí nghiệm cơm khác



Người thực hiện thí nghiệm chia sẻ: “Điều kỳ diệu này không mâu thuẫn với tự nhiên, mà nó mâu thuẫn với những gì chúng ta biết về tự nhiên”

Thí nghiệm này sẽ khiến bạn sửng sốt! Nó thực sự cho thấy tư tưởng và ngôn từ của chúng ta có sức mạnh rất lớn. Hãy thử nghĩ khi bạn đối xử với những người bạn yêu thương bằng lòng tốt và sự biết ơn, và điều đó ảnh hưởng tốt đến họ cả về thể chất lẫn tinh thần ra sao. Qua đó chúng ta hiểu được những suy nghĩ tiêu cực và lòng thù hận có thể tác động xấu đến cuộc sống của thế giới chúng ta mạnh mẽ như thế nào.

Đây là điều gì đó mà bạn cần phải thấy để tin. Hãy thử làm xem! Đó là một cách kinh ngạc để học hỏi về Sức mạnh của ý nghĩ. Con cái của chúng ta bị ảnh hưởng bởi những lời nói và ý nghĩ hướng về chúng, cũng như điều mà thí nghiệm này cho thấy. Bạn đang trút lên con cháu bạn và những người xung quanh những ý nghĩ như thế nào?

Một số nhà nghiên cứu đã mở rộng thí nghiệm này. Chúng ta sẽ dùng 4 lọ cơm. Ngoài 2 lọ “Tôi yêu bạn” và “Đồ ngu”, thêm một lọ “Bạn làm tôi tổn thương nhưng tôi vẫn nguyện cầu phúc lành cho bạn”, và một lọ không gắn nhãn gì cả. Chúng ta lại tiến hành thí nghiệm theo cách giống như thí nghiệm ban đầu.

Ở 2 lọ đầu, kết quả cũng giống như ở thí nghiệm trước. Ở lọ “Tôi yêu bạn” hầu như không có vết mốc nào, cơm trắng tinh. Ở lọ “Đồ ngu” cơm hỏng rất nhanh.

Bí ẩn của sức mạnh tư tưởng - Yêu thương & thù hận (kỳ1) - Tin180.com (Ảnh 3)
Lọ cơm “Tôi yêu bạn” và lọ cơm “Đồ ngu”

Còn ở 2 lọ mới, kết quả sẽ khiến bạn phải suy nghĩ.

Ở lọ cơm có dán nhãn “Bạn làm tôi tổn thương nhưng tôi vẫn nguyện cầu phúc lành cho bạn”, tình trạng của cơm vẫn rất tốt gần bằng như ở lọ “Tôi yêu bạn”. Nó chỉ hơi tệ hơn đôi chút mà thôi. Có một vết mốc nhỏ nằm dưới đáy lọ như trong hình mũi tên chỉ.

Bí ẩn của sức mạnh tư tưởng - Yêu thương & thù hận (kỳ1) - Tin180.com (Ảnh 4)
Lọ cơm “Bạn làm tôi tổn thương nhưng tôi vẫn nguyện cầu phúc lành cho bạn”

Còn ở lọ cơm không gắn nhãn và chúng ta hoàn toàn phớt lờ nó đi, tình trạng cơm cũng rất tồi tệ. Nó chỉ ít tồi tệ hơn lọ “Đồ ngu” một chút.

Bí ẩn của sức mạnh tư tưởng - Yêu thương & thù hận (kỳ1) - Tin180.com (Ảnh 5)
Lọ cơm bị phớt lờ

Lọ cơm “Bạn làm tôi tổn thương nhưng tôi vẫn nguyện cầu phúc lành cho bạn”, điều đó cũng tương tự như điều mà người xưa vẫn gọi là “lấy đức báo oán”, kết quả tốt đẹp. Lọ cơm bị phớt lờ cũng tương tự như những nạn nhân của tình trạng lạnh lùng vô cảm trong xã hội. Chúng ta đều biết sự lãnh đạm thờ ơ cũng có sức tàn phá ghê gớm như thế nào đối với nhân loại.


Thí nghiệm 2: Nước của chúng ta

Bí ẩn của sức mạnh tư tưởng - Yêu thương & thù hận (kỳ1) - Tin180.com (Ảnh 6)

Nhóm của Tiến sỹ Masaru Emoto đã ghi lại hàng triệu mẫu nước kết tinh khác nhau, và cuối cùng đã kết luận rằng: Khi mọi người gửi những thông điệp tốt và xấu khác nhau tới nước, dù là dưới dạng đoạn văn, hình ảnh, âm thanh, đoạn nhạc hay những hình thức khác, thì nước đều thấy được những thông tin đó, và quá trình kết tinh của nó sẽ cho ra những mẫu hình khác nhau. Những thông điệp tốt đẹp, biết ơn và thánh thiện sẽ tương ứng với tinh thể nước tươi đẹp, cân đối và trong sáng. Trong khi những thông điệp của lòng căm hờn, nỗi đau và sự lo lắng sẽ tương ứng với những tinh thể nước xấu xí, vỡ nát, đen tối… Những suy nghĩ khác nhau sẽ đem lại những mẫu nước kết tinh khác nhau.

Bí ẩn của sức mạnh tư tưởng - Yêu thương & thù hận (kỳ1) - Tin180.com (Ảnh 7)
Tinh thể nước được nhận thông điệp “Tình yêu và Cảm ơn”

Bí ẩn của sức mạnh tư tưởng - Yêu thương & thù hận (kỳ1) - Tin180.com (Ảnh 8)
Tinh thể nước nhận thông điệp “Đồ ngu”

Bí ẩn của sức mạnh tư tưởng - Yêu thương & thù hận (kỳ1) - Tin180.com (Ảnh 9)
Tinh thể nước bị nhận thông điệp “Mày làm tao phát ốm, tao sẽ giết mày”

Bí ẩn của sức mạnh tư tưởng - Yêu thương & thù hận (kỳ1) - Tin180.com (Ảnh 10)

Kết quả cùng một nước nhưng cho nghe các loại nhạc khác nhau. Nhạc rock nặng làm tinh thể nước trông thật ghê sợ.


*** Dùng tư tưởng để xử lý ô nhiễm nước

Trên thế giới có những nhóm người đã thử sử dụng ý nghĩ để xử lý ô nhiễm nước. Hàng trăm người đã thể hiện ý nghĩ tốt đẹp trước một cái hồ bị ô nhiễm. Một vài ngày sau, những đám tảo mục nát trong hồ đã biến mất và nước hồ đã trở nên sạch hơn, và điều này kéo dài được 6 tháng.

Những thí nghiệm này cũng cho chúng ta hiểu lý do tại sao ngày nay có nhiều thảm họa thiên nhiên đến như vậy. Trên thế giới có 7 tỷ người. Nếu tư tưởng của 1 tỷ người là xấu xa thì không chỉ hành vi của họ tàn phá thế giới mà ngay cả những suy nghĩ của họ cũng gây thảm họa cho thế giới. Bởi vì, ý nghĩ của chúng ta có thể thay đổi môi trường và thực tại, do đó khi chúng ta có những suy nghĩ tốt đẹp, nói chuyện ân cần, làm những việc tốt và sống tốt, ví dụ như hàng triệu người cùng cầu nguyện bằng những tư tưởng chính trực và nhân từ, thì chúng ta có thể thay đổi cả thế giới này.

Xin hãy nhìn xem những hình ảnh sau đây:

Bí ẩn của sức mạnh tư tưởng - Yêu thương & thù hận (kỳ1) - Tin180.com (Ảnh 11)
Nước máy lấy tại Higashi Nihonbashi trước khi nhận được nguyện cầu
Bí ẩn của sức mạnh tư tưởng - Yêu thương & thù hận (kỳ1) - Tin180.com (Ảnh 12)
Nước máy từ chính chỗ đó nhưng sau khi nhận được thông điệp tốt lành trong 10 ngày

Bí ẩn của sức mạnh tư tưởng - Yêu thương & thù hận (kỳ1) - Tin180.com (Ảnh 13)
Hình ảnh này được chụp 3 ngày sau khi tai nạn hạt nhân xảy ra ở Tokaimura, Nhật Bản vào tháng 9/1999. Tinh thể của nước được lấy từ một cái giếng, cách hiện trường vụ tai nạn hạt nhân khoảng 400 mét. Chúng ta có thể thấy tác động rõ ràng của phóng xạ ở đây
Bí ẩn của sức mạnh tư tưởng - Yêu thương & thù hận (kỳ1) - Tin180.com (Ảnh 14)

Hình ảnh của tinh thể nước cũng tại giếng đó, sau khi những thông điệp yêu thương và cảm thông được gửi tới nơi này

Bí ẩn của sức mạnh tư tưởng - Yêu thương & thù hận (kỳ1) - Tin180.com (Ảnh 15)
Tinh thể nước lấy từ đập Fujiwara trước khi được nguyện cầu. Nước ở đây ô nhiễm nặng.
Bí ẩn của sức mạnh tư tưởng - Yêu thương & thù hận (kỳ1) - Tin180.com (Ảnh 16)

Tinh thể nước lấy từ đập Fujiwara sau khi được nguyện cầu

Bí ẩn của sức mạnh tư tưởng - Yêu thương & thù hận (kỳ1) - Tin180.com (Ảnh 17)
Tinh thể nước được lấy từ Kobe Nhật Bản ngay sau khi trận đại động đất Hanshin-Awaji xảy ra

Bí ẩn của sức mạnh tư tưởng - Yêu thương & thù hận (kỳ1) - Tin180.com (Ảnh 18)

Tinh thể nước cùng nơi đó 3 tháng sau, khi khu vực này được quan tâm chia sẻ từ những người lương thiện khắp thế giới

Bí ẩn của sức mạnh tư tưởng - Yêu thương & thù hận (kỳ1) - Tin180.com (Ảnh 19)
Nước máy tại Tokyo
Bí ẩn của sức mạnh tư tưởng - Yêu thương & thù hận (kỳ1) - Tin180.com (Ảnh 20)

Nước máy tại Tokyo sau khi nhận được những tư tưởng tốt lành do một nhóm 500 người phát đến

Thuyết lượng tử đối với các thí nghiệm sức mạnh tư tưởng

Các thí nghiệm tương tự cũng chỉ ra rằng không chỉ nước có khả năng tiếp nhận và phản ứng với các dòng tư tưởng, mà thực vật, cơm và những vật chất khác cũng có khả năng này. Các nhà khoa học vật lý lượng tử đã chứng minh rằng tất cả mọi năng lượng của vũ trụ này có quan hệ qua lại lẫn nhau và vì vậy những thông điệp trên thế giới này đều có ảnh hưởng tới nhau. Khoa vật lý lượng tử cũng chứng tỏ rằng ý thức rất quan trọng trong việc định hình thực tại vật lý. Trong trường hợp thí nghiệm với nước thì năng lượng tư tưởng đã làm thay đổi cấu trúc tinh thể của phân tử nước. Không phải ngẫu nhiên mà người Trung Quốc có câu “Trong lòng nghĩ suy gì, trời đất đều biết cả”.

Trong nhiều thế kỷ, mọi người luôn tranh cãi với nhau rằng “cái nào có trước” – ý thức hay vật chất. Những thí nghiệm hết sức thực tại này đã chứng tỏ ý thức và vật chất chỉ là 2 mặt của một đồng tiền, quyện vào nhau. Chúng tuy hai mà một.

Những “nhà khoa học chủ lưu” nói rằng các thí nghiệm của Tiến sỹ Masaru Emoto là “không có thật”, hoàn toàn phớt lờ một cách giản tiện.

Nhưng sự thật vẫn là sự thật dù họ có thích sự thật hay không. Rất nhiều các nhà nghiên cứu chuyên nghiệp lẫn nghiệp dư đều dễ dàng lặp lại các thí nghiệm của Tiến sỹ Masaru. Ngay cả bạn cũng có thể tự làm thử thí nghiệm đơn giản với cơm và làm cho bạn bè của bạn phải thốt lên rằng: “Thật tuyệt vời, trời ạ, chuyện này là sự thật!!!”.


http://tin180.com/khoahoc/bi-an-the-gioi/20120117/bi-an-cua-suc-manh-tu-tuong-yeu-thuong-thu-han-ky-1.html

Tiên tri Maya

“Who will survive 2012?” Đây là câu hỏi mà đạo diễn điện ảnh nổi tiếng Roland Emmerich dành cho khán giả trong bộ phim “2012″ gây tiếng vang lớn được công chiếu toàn cầu từ ngày 13 tháng 11 năm 2009. Trong cuộc sống bận rộn này, liệu ai có thể tĩnh tâm đưa ra một câu hỏi về tương lai và tìm kiếm phương hướng giải thoát nhân loại khỏi tai họa?

Bộ phim “2012″ đã mô tả sức mạnh vô địch không thể cưỡng lại của tự nhiên: lục địa đứt gẫy, bản khối dời chuyển, hồng thủy và sóng thần tàn phá, kiến trúc nhân tạo không thể trụ vững, tượng Chúa Jesus ở Rio de Janeiro rơi vỡ tan, Nhà thờ Thánh Peter ở Vatican đổ xuống ầm ầm, các chính phủ và truyền thông hoàn toàn tê liệt, con người cầu khấn nhưng không thay đổi được tình hình, trong ánh mắt lộ rõ nét sợ hãi bất lực, v.v.

Kỳ thực, đối với kiếp nạn của nhân loại và tai nạn của địa cầu, con người đã không còn xa lạ. Loài khủng long năm xưa từng thống trị trái đất, trên thế giới ngày nay đã không còn dấu vết; dịch bệnh “cái chết đen” bùng phát tại Châu Âu thời Trung Cổ đã lấy đi mạng sống của 30% dân số nhân loại; dịch cúm lớn tại Tây Ban Nha năm 1918 gây ra cái chết của ít nhất 20 triệu người; hay trận động đất lớn tại Vấn Xuyên, Tứ Xuyên, Trung Quốc lúc 14 giờ 28 phút 4,1 giây ngày 12 tháng 5 năm 2008 khiến ít nhất 70.000 người tử vong. Những con số không còn lạ lẫm này chứng tỏ nhân loại vào mỗi thời khắc đều có thể đối diện với nguy hiểm chết người.

Bộ phim “2012″ lấy cảm hứng từ lời tiên tri của người Maya, mà tiên tri của người Maya lại xây dựng dựa trên cơ sở lịch pháp. Loại phương thức tiên tri này rất tương tự “Chu Dịch” của người Trung Quốc, đều là nghiên cứu quan hệ đối ứng giữa quy luật vận hành của thiên thể và biến đổi ở xã hội nhân loại. Nhà sử học, tiến sĩ Jose Arguelles người Mỹ đã dành trọn cả đời để nghiên cứu nền văn minh Maya. Tác phẩm “Hiệu ứng Maya” (The Mayan Factor: Path Beyond Technology do Bear&Company xuất bản năm 1973) của ông đã khảo sát chi tiết về lịch pháp Maya, trong đó chứng minh rằng Thái Dương hệ của chúng ta đang trải qua thời kỳ cuối cùng của “đại chu kỳ” (The Great Cycle) kéo dài hơn 5.000 năm. Thời gian là từ năm 3.113 TCN đến hết năm 2012 SCN. Trong “đại chu kỳ” này, sự vận động của địa cầu và Thái Dương hệ tiến vào “xạ tuyến ngân hà” (Galatic Beam) của hệ Ngân Hà. Mặt cắt ngang của xạ tuyến này có đường kính của 5.125 năm trái đất. Nói cách khác, địa cầu phải mất 5.125 năm để đi qua đường xạ tuyến này.

Giai đoạn cuối cùng của “đại chu kỳ” theo lịch pháp Maya, trong đó Unial cuối cùng từ năm 1992 đến 2012 (Ảnh: Chánh Kiến Net)

Người Maya tin rằng các hành tinh trong Thái Dương hệ, sau khi chịu ảnh hưởng của xạ tuyến ngân hà trong “đại chu kỳ”, sẽ phát sinh biến hóa về căn bản, gọi là “đồng bộ với hệ Ngân Hà” (Galatic Synchronization). Theo cách tính của người Maya, “đại chu kỳ” này lại phân thành 13 giai đoạn (Baktun), và diễn hóa của mỗi giai đoạn đều được ghi lại rất đầy đủ. Trong cuốn sách “Hiệu ứng Maya”, tiến sĩ Arguelles đã dùng một lượng lớn hình vẽ để thuyết minh tình huống diễn hóa mỗi giai đoạn này, lại phân mỗi giai đoạn thành 20 thời kỳ diễn hóa (Unial). Mỗi thời kỳ này kéo dài khoảng 20 năm.

Trong thời kỳ cuối cùng, từ năm 1992 đến 2012 (Unial cuối cùng của Baktun thứ 13), địa cầu của chúng ta sẽ tiến nhập vào giai đoạn cuối cùng của “đại chu kỳ” 5.125 năm. Người Maya cho rằng đây là giai đoạn cực kỳ trọng yếu trước khi địa cầu “đồng bộ với hệ Ngân Hà”, và gọi là “thời kỳ canh tân địa cầu” (Earth Regeneration Period). Trong thời kỳ này, địa cầu sẽ hoàn toàn đạt tới tịnh hóa (Earth Purification), và sau khi canh tân, địa cầu sẽ vượt qua xạ tuyến ngân hà để tiến vào giai đoạn “đồng bộ với hệ Ngân Hà”. Tiến sĩ Arguelles còn kết hợp với Chu Dịch của Trung Quốc và mật mã di truyền, v.v. từ nhiều góc độ khác nhau, với những phép tính phức tạp, để giải thích biến hóa thiên tượng này cho độc giả.

Đồng bộ với hệ Ngân Hà (Ảnh: Chánh Kiến Net)

Ngày 21 tháng 12 năm 2012, theo lịch pháp dài (Long Count Calendar) của người Maya, là ngày kết thúc văn minh nhân loại lần này. Sau đó, nhân loại sẽ tiến nhập vào một nền văn minh hoàn toàn mới không có quan hệ gì với nền văn minh hiện tại. Vào ngày Đông chí này (Winter Solstice), mặt trời, hoàng đạo (Ecliptic) và xích đạo (Equator) của hệ Ngân Hà sẽ hình thành một điểm giao hội hoàn toàn trùng khớp. Khi ấy mặt trời nằm vừa đúng trong khe của hệ Ngân Hà, hoặc có thể nói là hệ Ngân Hà “tọa lạc” ngay tại địa cầu, cũng giống như mở một “cánh cổng trời” (thiên môn) trên địa cầu. Người Maya không đề cập cụ thể nguyên nhân gì khiến nền văn minh lần này kết thúc, và cũng không ám chỉ rõ ràng đại kiếp nạn nào đó sẽ tới. Thay vào đó, họ nhấn mạnh vào sự chuyển biến và tỉnh giác về phương diện ý thức và tinh thần của toàn nhân loại (Cosmic Awareness and Spiritual Transition), từ đó tiến nhập văn minh mới. Năm 755 SCN, một thầy tu Maya đã tiên tri rằng: sau năm 1992, nhân loại sẽ có hai sự kiện lớn phát sinh — tỉnh giác về ý thức vũ trụ của nhân loại (Cosmic Awareness) và tịnh hóa, tái sinh của địa cầu (Earth Purification and Renewal).

Lịch pháp thần bí của người Maya đã tiết lộ quy luật vận động tất nhiên của Ngân Hà, nó cũng giống như bốn mùa ở trái đất, là không thể kháng cự. Như vậy, 20 năm cuối cùng, từ năm 1992 đến năm 2012 trong “đại chu kỳ” mà người Maya nói tới, địa cầu “tịnh hóa” và “canh tân” như thế nào? Các giáo sĩ truyền giáo Tây Ban Nha xâm nhập vào thế kỷ 16 gần như đã phá hủy hoàn toàn sử liệu của người Maya, chỉ để lại tiên tri Maya, khiến người đời sau rất khó lần ra manh mối. Tuy không rõ ràng về “tịnh hóa” và sự tỉnh giác ý thức nhân loại rốt cuộc là gì, nhưng người đời sau vẫn suy xét và nghiên cứu sâu sắc về vấn đề này.


Lịch pháp thần bí của người Maya kết thúc vào năm 2012 (Ảnh: Chánh Kiến Net)

Ngoài ra, trong lời tiên tri của bộ lạc Hopi ở Bắc Mỹ cũng nhắc tới khái niệm chu kỳ và tịnh hóa, nhưng họ nói rằng sau khi kết thúc tịnh hóa, những người lương thiện sẽ tiến nhập vào một kỷ nguyên mới tốt đẹp. Điều này tương tự đến lạ thường với các dự ngôn cổ đại Trung Quốc như “Mã Tiền Khóa”, “Mai Hoa Thi”, “Thiêu Bính Ca”, v.v. Còn trong các tiên tri Tây phương đều có khái niệm về “đại thẩm phán”. Tiên tri của các dân tộc khác nhau tuy hình thức bất đồng, nhưng đều có chung một nội hàm tinh thần. Đây là điểm rất thú vị, rất đáng để chúng ta suy ngẫm, rốt cuộc cứu cánh là nằm ở đâu? Sự tỉnh giác ý thức vũ trụ của nhân loại rốt cuộc là chỉ điều gì? Làm sao để tiến nhập thời đại mới tốt đẹp?

Như vậy, chúng ta thử nhìn lại năm 1992 xem rốt cuộc nhân loại có phát sinh sự tỉnh giác tinh thần nào không? Tháng 5 năm 1992, môn tu luyện Pháp Luân Đại Pháp (còn gọi là Pháp Luân Công) được truyền xuất tại Trung Quốc Đại Lục. Cho tới nay, đã gần 20 năm trôi qua, người ta phát hiện rằng bất chấp cuộc bức hại tàn khốc của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Pháp Luân Đại Pháp vẫn hồng truyền tại hơn 114 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, với phương thức người truyền người, tâm truyền tâm, giúp hơn 100 triệu người thân tâm thụ ích. Sách của Pháp Luân Công đã được phiên dịch thành 39 thứ tiếng và phát hành rộng rãi tại các nơi trên thế giới. Bên ngoài Trung Quốc, Pháp Luân Công nhận được hơn 1.800 bằng khen và nghị quyết ủng hộ các loại. Các học viên Pháp Luân Công gần như có mặt trong tất cả mọi giai tầng xã hội, từ giáo sư, học sinh, nhân viên chính phủ cho đến người bán hàng, từ dân chúng bình thường cho đến quan chức, từ tiến sĩ cho đến người mù chữ, từ đứa trẻ 3 tuổi cho đến cụ già 90 tuổi, không đâu là không bắt gặp bóng dáng các học viên Pháp Luân Công. Vượt khỏi giới hạn về tuổi tác, giới tính, địa lý, chủng tộc, tín ngưỡng tôn giáo, nền tảng văn hóa, giai tầng xã hội, sự phổ biến toàn diện của Pháp Luân Công tựa như ngọn hải đăng tỏa sáng khiến đạo đức của toàn nhân loại thăng hoa lên một nấc thang mới. Phải chăng đây chính là sự tỉnh giác toàn diện về ý thức và tinh thần của nhân loại trong lời tiên tri của người Maya?

Cảnh luyện công tập thể của các học viên Pháp Luân Công tại Đài Loan (Ảnh: Chánh Kiến Net)

Thời gian trôi qua thật mau, thời điểm tối hậu mà các lời tiên tri đề cập có lẽ đang đến gần. Để biết thêm về Pháp Luân Đại Pháp, xin các bạn vào trang: phapluan.org


Lão Tử – ông tổ của Đạo gia

Biết Lão Tử sắp rời đi, viên quan đã yêu cầu ông để lại kinh thư cho trần giới. Lão Tử chấp thuận, và đã để lại 5000 chữ, trong kinh điển “Đạo Đức Kinh” nổi tiếng hoàn cầu.

Lão Tử (571-470 TCN) tên thật là Lý Nhĩ, còn gọi Bá Dương, được coi là vị Thánh nhân ở Trung Quốc đã sáng lập ra Đạo gia. Đạo có nghĩa là "con đường" theo tiếng Trung Quốc.

Tương truyền ông sinh ra ở nước Sở, hiện nay là Lộc Ấp thuộc tỉnh Hà Nam, Trung Quốc trong những năm cuối thời Xuân Thu.

Người ta nói rằng ông có mái tóc và hàng lông mày màu trắng khi vừa mới sinh ra. Kể từ đó ông được gọi là Lão Tử, nó có nghĩa là "ông già khôn ngoan" theo tiếng Trung Quốc. Từ lúc còn trẻ, Lão Tử đã rất thông minh và siêng năng học hỏi.

Lão Tử làm quan giữ sách trong thư viện của nhà Chu thời Xuân Thu (770-481 TCN). Theo Sử ký Tư Mã Thiên, Lão Tử là người cùng thời nhưng lớn tuổi hơn Khổng Tử. Chuyện kể rằng Khổng Tử đã gặp ông ở nước Chu, gần nơi hiện nay là Lạc Dương, khi Khổng Tử tới tìm đọc các cuốn sách cổ trong thư viện. Sau đó, Khổng Tử và Lão Tử đã tranh luận về lễ nghi và phép tắc, vốn là những nền tảng của Khổng giáo. Lão Tử cho rằng việc khôi phục lễ giáo thời nhà Chu của Khổng Tử hòng giúp thiên hạ thái bình không phải là thượng sách. Truyền thuyết Đạo giáo kể rằng những cuộc tranh luận đó có ích cho Khổng Tử nhiều hơn so với những gì có trong thư viện.

Lão Tử nói: "Có một vật sinh ra từ lúc hỗn nguyên, có từ trước khi Trời và Đất được sinh ra, yên lặng vô hình, độc lập mà không thay đổi, vận hành tuần hoàn mà không ngừng nghỉ, có thể là mẹ của vạn vật trong vũ trụ. Ta không biết tên là gì, bèn gọi là Đạo". Ngài hiểu rằng Đạo là gốc rễ của tất cả mọi thứ, và con người cần hiểu rằng "Người thuận theo Đất, Đất thuận theo Trời, Trời thuận theo Đạo, Đạo thuận theo Tự nhiên", bởi vì đó chính là Thiên luật.

Lão Tử - ông tổ của Đạo gia - Tin180.com (Ảnh 2)

Sau này, Lão Tử nhận thấy rằng thế sự đã đến lúc tàn, đã cần phải ra đi. Ông đi về phía Tây trên lưng một con trâu qua nước Tần và từ đó biến mất vào sa mạc rộng lớn. Truyền thuyết kể rằng viên quan canh giữ biên giới tên là Doãn Hỷ đã quan sát thấy một vầng hào quang màu tím xuất hiện ở phía Đông, là điềm hiển linh khi Thánh nhân xuất hiện. Dõi về phía Đông, ông ta nhìn thấy Lão Tử xuất hiện trên một con trâu nước đang đủng đỉnh tiến bước, bèn lập tức ra nghênh đón.

Biết Lão Tử sắp rời đi, viên quan đã yêu cầu ông để lại kinh thư cho trần giới. Lão Tử chấp thuận, và đã để lại 5000 chữ, trong kinh điển "Đạo Đức Kinh" nổi tiếng hoàn cầu.

Lão Tử chỉ rõ rằng sự phát triển của nền "văn minh" đã làm cho con người chỉ theo đuổi danh và lợi, quên đi bản tính lương thiện của mình. Sự biến mất của lòng tốt, sự ngay chính, đạo hiếu và trung thành cho thấy sự suy đồi của đạo đức xã hội. Lão Tử tin rằng nếu đạo đức là một phần của cuộc sống hàng ngày, thì xã hội sẽ thăng hoa một cách tự nhiên.

Để giúp con người trở về bản tính tiên thiên lương thiện của mình, Lão Tử đã truyền giảng Đạo trong một thời kỳ hỗn loạn. Với chỉ 5000 từ Lão Tử đã cho con người hiểu được ý nghĩa của Đạo, mối quan hệ giữa Đạo và sự hình thành vũ trụ, và nguồn gốc của vạn vật. Ông cũng giảng cách làm người, và làm thế nào để nhân loại cuối cùng có thể quay trở về được bản nguyên của sinh mệnh bản thân.

Chính Sử

http://tin180.com/vanhoa/tinh-hoa-the-gioi/20111222/lao-tu-ong-to-cua-dao-gia.html