Một cây kim, ta có thể cứu được mạng người

Kính thưa quí vị, có thể quí vị đã có đọc những dòng chữ này rồi, nhưng chúng tôi muốn trích dịch ra tiếng Việt Nam và phổ biến rộng rãi, trong hy vọng có thể cứu được mạng người trong cơn nguy cấp, khi chờ đợi được các chuyên viên Y-tế săn sóc.



Khi bệnh nhân nằm đó, hãy thử xem người này có đúng là bị đột quỵ (tai biến mạch máu não, xuất huyết não) hay không, bằng ba cách :

- Bảo người đó cười.
- Bảo người đó nói, hoặc nói theo một câu ngắn
- Bảo người đó giơ tay lên.

Nếu người bệnh không làm được 3 điều đó, thì đúng là bị bệnh đột quỵ.

Kính thưa quí vị, có thể quí vị đã có đọc những dòng chữ này rồi, nhưng chúng tôi muốn trích dịch ra tiếng Việt Nam và phổ biến rộng rãi, trong hy vọng có thể cứu được mạng người trong cơn nguy cấp, khi chờ đợi được các chuyên viên y tế săn sóc.

Chỉ cần một ống tim thuốc (loại dùng xong rồi phế thải, bằng nhựa), hoặc một cây kim may là chúng ta có thể cứu mạng một bệnh nhân đang bị chứng tai biến mạch máu não (stroke). Việc cứu chữa thật đơn giản và dễ dàng một cách lạ lùng và hữu hiêu. Chúng ta chỉ cần vài phút để đọc tài liệu này, và các điều ghi trong tài liệu quả là những hướng dẫn tuyệt vời.

Xin quí vị ghi nhớ hoặc lưu giữ tài liệu này để sẵn sàng áp dụng, vì biết đâu, một ngày nào đó quí vị sẽ dùng đến để cứu sống mạng người.

Khi có bệnh nhân bị tai biến mạch máu não, chúng ta phải giữ bình tĩnh, đừng cuống quít. Ðiều quan trọng nhất là ÐỪNG BAO GIỜ DI CHUYỂN NẠN NHÂN, bất kỳ là họ đang bị nạn ở đâu. Vì nếu nạn nhân bị di chuyển, các tia huyết quản trong não bộ sẽ vỡ ra. Từ từ giúp bệnh nhân ngồi thẳng dậy, và chúng ta có thể bắt đầu công việc “rút máu.”

Nếu quí vị có sẵn một ống tiêm thuốc, thì tốt nhất, nếu không thì một cây kim may, hay một cây kim gút, cũng có thể giúp chúng ta được.

1- Trước hết chúng ta hãy hơ nóng kim bằng lửa(bật lửa, đèn nến) để sát trùng, rồi dùng kim để chích trên mười đầu ngón tay.

2- Chúng ta không cần tìm một huyệt đặc biệt nào cả, chỉ cần chích vào đầu ngón tay, cách móng tay độ một ly(milimetre).

3- Chích kim vào cho đến khi có máu rỉ ra.

4- Nếu máu không chảy, nên nặn đầu ngón tay cho đến khi thấy máu nhỏ giọt.

5- Khi máu đã chảy từ cả mười đầu ngón tay, thì chờ vài phút, bệnh nhân sẽ tỉnh dậy.

6- Nếu mồm bệnh nhân bị méo, thì chúng ta phải nắm hai (lỗ) tai của bệnh nhân kéo mạnh, cho đến khi hai tai đều ửng màu đỏ.

7- Chích vào dái tai (ear lobe) hai mũi kim mỗi bên cho đến khi máu nhỏ giọt từ mỗi dái tai. Sau vài phút, bệnh nhân sẽ tỉnh lại. Chúng ta hãy kiên tâm chờ cho đến khi bệnh nhân hoàn toàn hồi tỉnh và không có một triệu chứng nào khác thường mới mang bệnh nhân đến bệnh viện.

Vì nếu nạn nhân được chuyên chở vào bệnh viện sớm hơn. Có thể những dằn sóc của xe cứu thương sẽ làm cho các mao quản (capillaries) trong não bộ bi vỡ ra.

Theo các thống kê, thì hiện nay, bệnh tai biến mạch máu não là nguyên nhân giết chết người ta hàng thứ nhì. Những người may mắn thì có thể sống còn, nhưng phải mang tật nguyền suốt đời. Ðó là một tai họa khủng khiếp có thể xảy đến cho một cá nhân. Nếu chúng ta có thể ghi nhớ phương pháp cho xuất huyết trên đây, để có thể giúp đỡ những nạn nhân của căn bệnh quái ác này, để áp dụng tức thời trên nạn nhân, thì chỉ trong một thời gian ngắn, bệnh nhân sẽ tỉnh lại và được phục hồi 100%.

Chúng tôi hy vọng là quí vị có thể phổ biến tài liệu này để bệnh tai biến mạch máu não không còn là một căn bệnh giết người như hiện nay nữa.

NGUYÊN NHÂN VÀ NHỮNG ĐIỀU KIỆN DẪN ĐẾN TBMMN

1- Nguyên nhân:


- Những người bị cao huyết áp.
- Xơ vữa động mạch: Thường ở những người béo mập, những người nghiện bia, rượu, hút thuốc lá...
- Những người bị các bệnh về tim, mạch (hẹp, hở van tim, van động mạch chủ, động mạch phổi...)

2- Điều kiện (còn gọi là nguyên nhân tức thời để TBMMN dễ xảy ra)

- Tình trạng thần kinh căng thẳng (tức giận, lo âu, buồn vui quá độ...)
- Say bia, say rượu, say thuốc lá.
- Nhiễm lạnh đột ngột (khi tắm, bị gió lùa).

NHỮNG DẤU HIỆU BÁO TRƯỚC KHI BỊ TBMMN

- Nhức đầu: Đây là dấu hiệu thường có nhất, hay xuất hiện về đêm, nhức nửa đầu (thường ở bên sẽ bị tổn thương). Cơn nhức đầu có thể thoáng qua hoặc kéo dài.

- Chóng mặt, ù tai, buồn nôn, nhiều khi bị xung huyết ở vùng mặt (bầm tím).

- Rối loạn ngôn ngữ: Nói khó, nói ngọng, không hiểu lời.

- Tê bì hoặc dị cảm nửa người (bên sẽ bị liệt).

- Thoáng mất ý thức, thoáng quên, thoáng điếc, thoáng ngất.

Tất cả những dấu hiệu trên có thể chỉ thoáng qua rồi mất cho nên người bệnh không lưu ý. Nhưng có khi ngay sau đó người bệnh rơi vào tình trạng TBMMN (hôn mê).

NHỮNG TRIỆU CHỨNG CỦA TBMMN

1- Nếu nặng

Tự nhiên bệnh nhân bị sây sẩm mặt mày rồi ngã vật ra, mê man bất tỉnh, thở khò khè. Liệt nửa người, ỉa đái dầm dề. Những trường hợp này rất nặng, dễ dẫn đến tử vong sau ít giờ.

2- Nếu nhẹ

Bệnh nhân cảm thấy nói khó, tê bì nửa người, tay chân khó vận động và dần dần không thể chủ động được nữa, tình trạng tinh thần vẫn còn tỉnh táo. Bệnh có thể dừng ở đây rồi phục hồi dần dần. Song nhiều khi trở thành nặng như trên.



Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội

Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội (CNXH) là vấn đề cơ bản, cốt lõi và là mục tiêu mà Đảng và nhân dân ta kiên trì, kiên định phấn đấu từ năm 1930 đến nay. Nhờ nắm vững mục tiêu đó, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta giành chính quyền về tay nhân dân lao động, làm nên những thắng lợi vĩ đại và huy hoàng trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đưa cả nước tiến lên CNXH, thực hiện công cuộc đổi mới mang lại nhiều thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử.

Tuy vậy trên các trang mạng phản động vẫn có những giọng điệu lạc lõng đòi Đảng ta, nhân dân ta phải từ bỏ mục tiêu, con đường đã chọn. Để phủ nhận mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phủ nhận giá trị đích thực của Cách mạng nước ta, một tờ báo mạng đăng tải bài viết xuyên tạc rằng: “Sau 66 năm gọi là “độc lập”, người dân nước ta đến nay vẫn chưa có tự do, vẫn chưa có dân chủ, vẫn chưa có quyền công dân, vẫn như bơ vơ lạc lõng trên chính quê hương mình”; và cho rằng, nguyên nhân sâu xa là từ chế độ “chủ nghĩa xã hội Mác-xít”. Một tờ báo mạng khác thì nêu lên 10 luận điểm xuyên tạc trên những vấn đề rất cơ bản, mang tính chất nền tảng, gốc rễ của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, hết sức độc hại và nguy hiểm cả về tư tưởng, lý luận và lịch sử, xuyên tạc một cách có hệ thống bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin.

Chẳng cần phải phân tích nhiều cũng đã rõ tính chất phản động và phản khoa học của những quan điểm thù địch, sai trái đó. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Thực tiễn lịch sử cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là hiện thực sinh động làm cho nhân dân ta ngày càng vững tin hơn vào chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vào sự lãnh đạo của Đảng và con đường mà cả dân tộc ta đang một lòng vững bước tiến về phía trước.

Cần khẳng định rằng, chúng ta kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH là đi tiếp con đường cả dân tộc đã từng đi hơn tám thập kỷ qua; là nối tiếp hiện thực - thực tiễn CNXH đã có, đang có ở Việt Nam, chứ không phải là kiên định một "lý tưởng mơ hồ". Con đường cách mạng mà Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn thể hiện đầy đủ khát vọng của mọi tầng lớp nhân dân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH là giải pháp tổng quát duy nhất đúng, tối ưu, nhanh nhất và hiệu quả nhất để xây dựng đất nước Việt Nam thực sự dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, nhân dân ta thực sự ấm no, tự do, hạnh phúc và làm chủ thực sự cuộc sống và đất nước mình.

Nhân dân ta được làm chủ vận mệnh của mình, được xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc trong một đất nước độc lập, tự do như ngày hôm nay là kết quả phấn đấu và hy sinh xương máu của nhiều thế hệ người Việt Nam đi theo ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Không có CNXH thì làm sao có được độc lập dân tộc thực sự và triệt để; làm sao nhân dân được hạnh phúc thực sự; vị thế đất nước ngày càng nâng cao trên trường quốc tế như hôm nay. Thế giới biết đến và đánh giá cao Việt Nam không chỉ vì nhân dân Việt Nam anh dũng, kiên cường và chiến thắng các đế quốc to, mà còn vì cách mạng nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đạt được những thành tựu to lớn, mang ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước.

Báo Nước Mỹ ngày nay, tờ báo có số phát hành lớn nhất ở Hoa Kỳ, đăng bài của Đa-vít Lin-chơ, đã từng viết: “Việt Nam giờ đây đang trên con đường trở thành quốc gia châu Á mới nhất chuyển từ đất nước nghèo nàn thời thuộc địa thành một quốc gia phồn thịnh. Không khí hoạt động nhộn nhịp tại các nhà máy, công xưởng và người đi lại như mắc cửi trên các đường phố phản ánh rõ một thực tế là người Việt Nam hướng tới những ngày tháng tốt đẹp ở phía trước”. Tại Luân Đôn, ngày 23 và 24-9-2008, trong báo cáo nhan đề “Các thị trường của tương lai”, Cơ quan Thương mại và Đầu tư của Chính phủ Anh (UKTI) nhận định, Việt Nam là thị trường có sức hấp dẫn nhất, đứng đầu trong mười nước có tốc độ tăng trưởng cao trong tương lai. Theo mạng EMFIS (Đức) “Về trung hạn, Việt Nam vẫn tiếp tục là một trong những nước được quan tâm nhất của các nhà đầu tư”. Báo cáo của Ban tổ chức Hội nghị Toàn cầu các quốc gia hòa bình tại Oa-sinh-tơn diễn ra từ ngày 1 đến ngày 3-11-2009 nêu rõ: “Việt Nam đang đạt được ổn định trong nước thông qua công cuộc phát triển kinh tế được cả thế giới biết đến với tên gọi “Đổi mới”.

Có được những đánh giá nhận định khả quan về kinh tế Việt Nam là bởi con đường XHCN chúng ta đang đi là đúng đắn, phù hợp với xu thế thời đại và yêu cầu phát triển của dân tộc. Đó là bằng chứng sát thực nhất có được từ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, trong đó kiên trì, kiên định con đường, mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH luôn được Đảng ta, nhân dân ta nắm vững và giương cao mang ý nghĩa quyết định.

Sự nghiệp xây dựng xã hội mới ở nước ta thật sự khó khăn, phức tạp và lâu dài, nhưng cũng có những thuận lợi cơ bản và thời cơ lớn. Bài học kinh nghiệm quan trọng nhất Đảng ta rút ra từ thực tiễn lãnh đạo và chỉ đạo cách mạng thời gian qua là, trong bất kỳ điều kiện và tình huống nào cũng phải kiên trì thực hiện đường lối và mục tiêu đổi mới, kiên định và vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Với thế và lực của đất nước hiện nay, với sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta sẽ tận dụng được thuận lợi, tranh thủ được thời cơ, vượt qua khó khăn, thách thức, khắc phục nguy cơ, thực hiện thắng lợi những mục tiêu theo con đường đã chọn.

PGS.TS Nguyễn Mạnh Hưởng

http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/5/5/5/165248/Default.aspx

Sự sống phải chăng là vĩnh cửu?

Liệu rằng có tồn tại một cuộc sống khác sau khi người ta chết đi? Và liệu bản chất của sự bất tử có nằm trong một linh hồn vật chất?

img
Khi thân xác vật lý của chúng ta chết đi giống như một ngọn nến lụi tàn, linh hồn của chúng ta liệu có còn tồn tại? (Stephanie Lam / Thời báo Đại Kỷ Nguyên)

Theo nghĩa hẹp thì cơ thể con người chết đi mỗi thập kỷ một lần. Từng tế bào tái tạo, mất đi, và được thay thế theo mỗi tần số cụ thể, tùy thuộc vào loại tế bào (cơ, mô liên kết, cơ quan, thần kinh, và vv…). Tuy nhiên, khi các tế bào ban đầu trên gương mặt, xương hoặc trong máu của chúng ta già và mất đi hàng giờ, hàng ngày, hoặc hàng năm, cơ thể của chúng ta luôn đổi mới, trong khi đó ý thức thì vẫn không mất đi.

Vậy thì, ý thức trú ngụ ở nơi đâu? Có phải nó nằm bên ngoài vòng quay giữa sự sống và cái chết mà thân xác của chúng ta trải qua? Cuộc sống là gì? Và điều gì định đoạt cái chết?

Câu trả lời cho những câu hỏi kiểu như thế này thường được tìm thấy ở một nơi nào đó thuộc ranh giới giữa khoa học và triết học, tuy vậy khả năng để xác định rõ khi nào cuộc sống bắt đầu, kết thúc, và nó nằm ở đâu,… là một vấn đề xác đáng đối với một cộng đồng khoa học có ý định khám phá sự tồn tại của các sinh vật sống trong những cuộc hành trình khám phá không gian tương lai.

Nguyên tử bất diệt

img231

Theo sinh vật học hiện đại, học hành – bao gồm đủ loại kích thích môi trường và sự phân nhánh hình cây trong cả cuộc đời một người – phát triển trong cái gọi là “bộ nhớ neuron”.

Cách lưu trữ thông tin này nhanh chóng, nhưng nó không cho hiệu quả cao như lưu trữ thông tin qua di truyền. Một gói thông tin di truyền liên tục chuyển từ thế hệ này qua thế hệ sau mà không cần đến những bài học thuộc lòng tẻ nhạt.

Nói cách khác, các bản thiết kế của cơ thể chúng ta có tồn tại bên trong con cái của chúng qua gen di truyền của chúng ta. Màu tóc, hình dáng cơ thể, protein trong huyết tương, hoặc thể chất đặc biệt được bảo quản trong các gói thông tin di truyền, mang và truyền qua nhiều thế hệ.

Trong sự kết hợp giữa các giao tử, một tỷ lệ lớn các gen bị mất đi trong quá trình hình thành hợp tử. Những đặc điểm được truyền đi, nhưng đặc tính cá nhân thì chết.

Tuy nhiên, một số nhà khoa học khẳng định rằng tâm trí và cơ thể đi theo những con đường khác nhau sau khi “chết”. Theo bác sỹ Rene Severijnen và bác sỹ Ger Bongaerts – các nhà nghiên cứu tại trung tâm y tế Đại học Radboud Nijmegen, Hà Lan – thì cuộc sống tồn tại ở nhiều cấp độ khác nhau. Họ giải thích rằng trong khi các tế bào chết đi tương đối nhanh chóng, các nguyên tử lại hầu như bất tử.

Theo Bongaerts, cái chết của một nguyên tử có nghĩa là vật chất chuyển đổi thành năng lượng – giống như khi một quả bom hạt nhân phát nổ. Nghĩa là, trong khi cơ thể đang phân hủy trong nhà xác (phân hủy ở cấp độ tế bào), các hạt nhân nguyên tử không bị phân rã.

Hoạt động của nguyên tử không kết thúc cùng với cái chết, vậy thì điều gì xảy ra với những nguyên tử đó khi một người chết đi?

Nếu chúng ta xem xét đến niềm tin của các nền văn hóa phương Đông cổ đại, người ta nói rằng con người có nhiều thân thể tồn tại ở nhiều tầng khác nhau. Hiểu được điều này, chúng ta có thể nhận thấy rằng trong khi cơ thể trong nhà xác phân hủy, tầng tế bào cũng đang phân hủy (cơ thể vật lý). Trong khi đó, các nguyên tử có liên quan bên trong những tế bào này vẫn tồn tại trong một không gian mà không bị ảnh hưởng bởi sự phân hủy ấy, vẫn giữ được kết cấu ban đầu của chúng.

Vì vậy, những “thân thể” cấu tạo từ các hạt nhỏ hơn tế bào mà không trải qua quá trình phân hủy ấy, có thể chính là linh hồn, tinh thần, hoặc ý thức mà chúng ta có thể nhận biết bằng trực giác, nhưng khoa học hiện nay vẫn chưa thể xác định nổi.

Sự hiện diện của chúng chỉ ra rằng thậm chí sau cái chết của một cơ thể, có lẽ cuộc sống vẫn chưa kết thúc.

Sự sống vi mô

Theo một số nhà khoa học, các nguyên tử ghi nhớ mọi cảm xúc, mọi cảm giác, mọi trải nghiệm siêu nhỏ.

img321

Trong nhiều năm qua, các khoa học gia tin rằng các tế bào thiếu tính cá thể, chúng được cho là hành động theo nhóm như những sợi chỉ trong một tấm vải. Tuy nhiên, nghiên cứu gần đây của Giáo sư Brian Ford – nhà sinh vật học và là chủ tịch của Hội Ứng dụng Nghiên cứu Cambridge, đã đưa ra một giả thuyết khác.

Nghiên cứu của ông cho thấy rằng thực ra mỗi từng tế bào là những thực thể hoàn chỉnh, có trí thông minh, có thể truyền đạt và chia sẻ thông tin. Theo quan điểm của ông, mỗi tế bào riêng lẻ là một sinh vật hoàn chỉnh thực sự có khả năng đưa ra quyết định.

img5

Vậy thì hãy nghĩ xem, nếu các khả năng ấy của tế bào cũng đúng với các cấu trúc ở cấp nguyên tử thì sao? Điều đó có thể sẽ mang lại một chìa khóa mở ra sự bất tử và chứng tỏ rằng cái chết thực ra chỉ là ảo ảnh mà thôi.

(Theo The Epoch Times)

http://tin180.com/khoahoc/ho-so-tu-lieu/20111027/su-song-phai-chang-la-vinh-cuu.html

Giải thích nguồn gốc các đại dương trên Trái Đất

Ngày 25/10, Tân Hoa xã đưa tin, một nhóm các nhà khoa học châu Âu thông báo đã phát hiện một lượng hơi nước khổng lồ ngoài hệ Mặt Trời.

Nhờ sử dụng Đài thiên văn vũ trụ Herschel, một vệ tinh của Cơ quan Vũ trụ châu Âu, các nhà nghiên cứu đã quan sát được lượng hơi nước lớn bao quanh một ngôi sao cách Trái Đất 175 năm ánh sáng và đĩa bụi xung quanh ngôi sao này mà cuối cùng sẽ hình thành nên một hành tinh.

Các nhà nghiên cứu cho rằng, lượng hơi nước nói trên, “đủ nhiều để lấp đầy hàng nghìn đại dương trên Trái Đất,” có thể sẽ biến thành mưa rơi xuống và tạo nên các đại dương trong tương lai trên hành tinh trẻ nói trên, tương tự những gì đã diễn ra trên hành tinh của chúng ta 4,5 tỷ năm về trước.

Nhà thiên văn học Michiel Hogerheijde thuộc Đài quan sát Leiden ở Hà Lan khẳng định: “Từ lâu các nhà khoa học đã xác định có những lượng nước lạnh khổng lồ như vậy ẩn khuất đâu đó trong những khu vực bên ngoài của đĩa hành tinh. Nay lý thuyết đó trở nên thuyết phục hơn đáng kể.”

Ông kết luận phát hiện này không chỉ giải thích về nguồn gốc của đại dương trên Trái Đất mà cũng gợi ý rằng có thể có nhiều “thế giới đại dương” trong các dải thiên hà.

Nghiên cứu trên được đăng ngày 23/10 trên tạp chí Khoa học của Mỹ./.

http://www.vietnamplus.vn/Home/Giai-thich-nguon-goc-cac-dai-duong-tren-Trai-Dat/201110/110705.vnplus

Ngũ Hành sanh khắc luận

去五行生克论 《连山归藏》铁版佐证 金、木、水、火、土,中国古代的思想家把这五种物质作为构成万物的元素,但源起于春秋时的五行相生相胜的思想,在西汉被京房的《京氏易传》在八卦中贯以世、应、伏、飞等解说爻、卦的术数理论穿凿五行生克制化统御八卦形成了新的“朴素哲学”、“唯物论”。其实这种理论凭据实在不可在八卦中推敲,以致中国的术士应用“五行”2000多年之久,其间竞无人提出太多疑问,至今在中国九家易理唯物朴素哲学体系中亦无人置疑它。 五行者,本周舞也。秦始皇二十六年更名曰:五行其舞人冠冕衣服法五行色。在商周时又有五刑之法即:“古代五行刑法”。而中医学理论的《黄帝内经》的五行辩证(症)理论体系是存立的,因黄帝内经论:“肺”属金、“肝”属木、“胃”属土、“心”属火、“肾”属水,这五种物体的代表都是存在于一个人体之内的实物,假如肺热有火,就可用汤药凉性之物以制之,或西药皆可,这是一种实物对实物在同一肌体内的客观辩证(症),如肾虚不济、心肾不交,则可以通过用补肾温通之法来用药也是实物对实物,就是说在《黄帝内经》的五行理论都是客观存在的实物相胜相生论,这种理论可存在于一个有效的客观实物范畴内。 而当下的五行理论也是一种“朴素”“唯物”论,在四季中早有定性五行划分的春属木、秋属金、夏属火、冬属水、中央戊己属土,把它们混起来生克制化我们看看结果怎样: 用秋天的金去克春天的木,一年四季中秋在春之后,春在秋之前,早已是时过境迁的两个概念,怎么把春秋二季搞在一起比高下,这是个概念问题,有人说我可以拿斧子(属金)去砍木头,不就金克木了吗?古人也好、今天也好,我们论的这五行是客观自然状态下的朴素哲学观,就是说存在于一定空间时间状况下的自然物质永远是自然的,斧子是人为的东西,你用人为去一厢情愿的制造出一种“非客观”理论,就成了“唯心论”。这就是中国的易学多少年来摘不掉迷信帽子的隐忧。 金克木,金原本不存在,地球人从公元前3000多年才有了冶炼技术、青铜出现,那时尚不能绕开石器的使用,也就是说金的自然形式是“石”,原应以石、木、水、火、土论五行五种自然物质才对,其实金本是人为的东西了,金的存在是非自然界原生态的东西,那何可论“朴素”哲学。再说了,中国有新旧石器时代,是很漫长的时期,中国的有文字可考的文化应该更早上溯到七、八千年前,朴素而唯物的自然科学体系早在夏代时已经形成,那时形成的历法即“夏历”我们今天仍在沿用,这是古代天文学的代表作,可证明其在西汉2000多年前五行理论形式之先,中国应该有一套非常完善的唯物哲学来指导先民的客观行为,那就是早已失传的《连山经易》。 《连山经易》不论五行论六气即:温、热、寒、凉、署、燥,风为媒界(载体)推动六气在自然界运行万物生息。《连山经易》把一年中以正月建寅立春为一阳初发,把立秋定为阴消阳之势,这与当下易书中以子午定阴阳的理论大不相同,即《连山经易》是论一年四季中寅申定阴阳的。另《连山经易》的阳卦为乾系:艮、离、巽,阴卦坤系:震、坎、兑。 具体完善的《连山经易》著已横空出世,这是既2200年前秦焚书后,《连山经易》的传人把这套本属于全民族的人类朴素唯物观哲学体系还其本来面目,以正当下易学之乱象,以非常具体的客观实物论、摸看论、数理论证明《连山经易》并未失传。 我们再论石(金)克木,自然界的石怎么能在自然条件下克木呢?显然不能,倒是“咬定青山不放松”的树木根系不断的生长扎根而会使石裂崩化,这亦能叫木克金。 木克土。木依土生,土以培木,相互依存,木的本性是长、伸、延、展,尽可能的依土而亲和,做到我在你中,并不会使土有半点损耗,反而由于木的存在土不会被水冲刷流失,怎能说是木克土呢? 土克水。土水相依,水中有土,土中有水,水性下流而土挡聚之堵使之不泛滥,从某种意义上讲土是可以治水,但不能论克,第一:土是水之根,若无土涵水,水之不保,第二:占地球面积七成的海洋不可不谓水之浩淼,以土来治,何可为也?第三:土若无水滋润必燥,尘埃荡荡,难为本性,所以水土本是共存一体的比和关系,如六十四卦“水地比”可说明这一点。 水克火更是不可理喻,太阳为火,为真火,一个是恒星照耀天光,寒冷的冰水靠太阳之火来熔化暖之才能使其活性自如,温度再高时水可升腾气化成云致雨,循环于自然界中,何可水能克火,退一步说:地壳之下地核内部的岩浆温度高达几千摄氏度,试问地球上哪座海洋中的活火山被海水浇熄过。证明水不能克火。 火克金。早先讲地球客观“自然朴素”,咱们就论“朴素自然”,不能人为参加什么改造自然的想法(如风电、水电等只是利用)。金本是指石,地球形成之初石之遍布地表,从有了冷热气流的对流风才形成,再经过几十亿年的风化剥落,土壤也形成了。如果说石(金)最后剥落成土是风化的能量使之然也,这与火克石(金)有什么关系呢? 金生水。原来是说古人看到的水自山石中出,中国的三江源出于西山、川藏、青海之地(兑为石、石为金、金中出水),而水的本源在大海之中,由台风、季风再把湿热的洋流带向大陆,遇冷空气成霜雪雨雾而滋养万物或渗存于地下,怎么论也看不出石(金)生水逻辑,只能是说水就是水,水的流动为风能而起,亦讲“风生水起”。 水生木半成立,但细说是水滋养万物,并不能独生,首先就论植物之生长,必然有土培、阳光,温度再加适当的水称湿度,单是一个水能独生万物乎?亦只可论滋养。 木生火。太阳之火经科学验证是核能,是不断核聚变所产生与木生火并无关系,地壳下的赤热岩浆亦不是木能生的。非得说自然中的森林大火,那也是要看第一:自然中天干物燥自燃行为,第二:雷电使之燃也,抛开人为的点燃,木在自然界中生了火之说也太局限,再说万物生长靠太阳,太阳热能经光合作用转化成树木植物,这说明地球上几乎一切的生物动物都是太阳之子,木主仁,仁同人。是火生了木,亦可论火成就了木,木何能何德可生火也?只能说木具有可燃性。 火生土,地球在宇宙大爆炸之始为混沌之尘埃状,目前科学界仍不能定论恒星火生了行星土,所以这火生土也不能成立,至于木燃化灰成土之说只是自然界的局限现象成因之一。 土生金。土与矿物是经过漫长的地壳地理客观变化而基本固定下来的储藏形态,一座山里面,一块地该是金矿既是金、该是铁矿既是铁,就是万万年也不能再生新贵,“土生金”只能说是金自土出而并不能生,也不会长。 再看中国当下的八卦,乾、坎、艮、震、四男卦,加巽、离、坤、兑四女卦,八的存在是证明有九的成立,因为八卦为人发明所造设,八卦若不为戊己(无己)服务,己是我们自己,中央“戊己土”,发明八卦的古人开始定是以人为本的利己观,八卦九宫也就有存在的意义,既然是八卦加中央“戊己土”九个概念,却被加上五行又变成五个概念,一下子由九种理论退回来变作五种概念。这说明从西汉时,以京房为代表的易学或有意无意的制造了一种“伪朴素哲学”五行生克论,因那时庶人是不可论天文的,一直到三国的曹魏时代,演天文者都是重罪。他们以五行统八卦,把中国易学的九个概念弄成五个,这样一直传了下来到今天,除《白话易经》中没有五行理论外,其余几乎所有易著都用五行生克。 八卦是论的天下时空、四季、元运的变化概念,时光一去永不回,你用夏天的火去克秋天的金这怎么可以追得上去克?这是概念问题,决非实物的相互论证、印证可解释,在《连山经易》中就把六气的概念问题谈的非常明白,“天下乾坤而统六气,吉凶祸福随四时而发,虽天下万物而纷纭,莫过乎六气而旺衰,万物而生息,不过六气而运通。”让我们试目以待《连山易》这本巨著横空出世后之见真去伪。 五行理论中把八卦以人为本的哲学概念搞的非常混乱而可笑,坤卦后天八卦位居西南代表老太太,艮卦后天八卦中位居东北代表少男,看看五行是如何搓合为一个 “土”字代表,两卦把艮坤都当作土来划为一类,试想八卦为古代人本社会更好的生存哲学观可设,你把一个老奶奶和一个生命力极强的少男放在一起这如何能成立?五行口口声声是朴素哲学,怎么到这就讲不通理了,这是朴素哲学吗?再看另一个不能让人解释的五行“客观”凭据,后天八卦乾为老头居西北,兑为少女居正西,一个老头和一个少女同划为金,甚至连性别都不顾胡乱捏作,真的太可气人;巽为木为长女,震为木为长男,二个异姓男女现在只报一个人的户口,谁可以解释这五行之父怎么生出这样五个五不像的产物? 八卦演变之始,原本是要先搞清楚一年四季与阴阳变化的规律定义,再进行完善自然概念的理论框架,这是中国农本社会在以农耕为主要社会任务下创建的科学种田观。是当时社会急需的一个具有实用性纲领性的指导学说,《连山经易》中的八卦理论体系主要是讲政家法家如何御民、兵家如何征战、农家如何适时耕种收获、教育家如何教人成才、阴阳家如何教人顺应天道与时偕行、天文学家如何预知吉凶祸福、自家如何衍繁生息、医家如何辩证施治、道家、养生家如何延寿天年等。 《连山经易》不论五行生克制化,它的卦词除乾卦一卦有同《白话易经》其余63个卦的卦词、训词、爻词与《白话易经》无一相同,以宫变、象变为演卦的基本推理步骤,把三易之冠《周易》、《连山易》、《归藏易》之首《连山易》成著以示世人。把2200年以来口口相传密而不宣的江湖派理论绝秘文献公诸于世,这部《连山易》将会对当今流行的九家易,以五行生克制化为代表的理论体系进行一次大变革。自汉以来传说失传遁隐于江湖真正的唯物朴素哲学代表作《连山易》现已公布于天下。 正逢祖国六十华诞,运行艮八白运第七年2009-2010年为丑寅艮卦所主。为连山延绵,《连山易》重出面世必将对中国今后几千年的文化思想有着非常巨大的推动和影响,使历经22个世纪以来连山传人孜孜不悔忠实原著,保存中华文明史瑰丽篇章的先师们英灵得以告慰,他们将永垂青史。连山近代先祖师“白胜玉”曾留诗谶给当代宗师韩艺先生曰: 连山归藏本应藏, 真言不藏恐余殃; 十二九宫连山岁, 应是连山焕新装。

Bài 105

TẠP-QUÁI-TRUYỆN

Cấu-trúc cuả Tạp-Quái-Truyện đã được duyệt kỹ trong hai bài 96 và 97. Hay ho nhất là cắt nghiã tại sao tám quẻ cuối truyện (Đại-quá, Cấu, Tiệm, Di, Ký-tế, Quy-muội, Vi-tế, Quyết) lại không phản-đối từng đôi một. Dưới đây là bổ-túc bằng Tân-toán-học.

GS Daniel Goldenberg đã chứng-minh rằng nhóm 64 biệt-quái với phép toán 2-chu-kỳ (hào chi giữa hai hào lân-cận = 2-cycle), là một nhóm phi-abel (non-abelian group). Tính phi-abel là hệ-quả hiển-nhiên cuả kết-hợp giữa 2-chu-kỳ. Tuy nhiên, nếu ta dùng liệt-kê mật-mã Gray (Xem bên dưới), nhóm phi-Abel này sẽ trở thành nhóm Abel, bởi vì với bất kỳ ba 2-chu-kỳ liên-tiếp nào, phép cộng đẳng-thặng 2 sẽ giao-hoán.

Nhờ Định-lý khổng-lồ cuả toán-thuyết về nhóm, nhóm phi-Abel này nghiễm-nhiên là nhóm giản-dị hữu-hạn xưa nhất thế-giới. Định-lý căn-bản Đại-số Chu-dịch (Định-lý 7) bảo rằng: "Với bất kỳ một cặp biệt-quái nào ta cũng tìm ra được một biệt-quái thứ ba duy nhất, mệnh-danh là biệt-quái trung-gian, biến đổi một biệt-quá trong cặp thành biệt-quái kia trong cặp qua phép cộng hay phép trừ đẳng-thặng 2". Tỷ như trong thí-dụ sau đây:

001011 (Tiệm u) 100001 (Di v[)

+ 100001 (Di v[) + 110100 (Quy-muội v)

101010 (Ký-tế ) 010101 (Vị-tế )

On the abstract level, professor Goldenberg showed that the group of 64 hexagrams of the Chouyi (R34, p. 149-51), under the binary operation of 2-cycle (permutation of 2 contiguous hsiaos or hsiao swap or bits swap) is a non-abelian group, i.e. satisfying closure, associativity, identity element, and inverse. The non-abelian property is obvious because of the order of composition of the 2-cycles.

However, if we use the Gray Code Sequencing (cf. Chapter Five, § 2.7), the group becomes abelian, because for any three successive 2-cycles the addition or the substraction modulo 2 is commutative. Check!

Thanks to the Enormous Theorem in Group Theory (R36), this non-abelian group constitutes the oldest simple finite group of the World. The Goldenberg’s fundamental theorem of the Algebra of the Chouyi (R34, pp.163-4) reads: “For any hexagram-pair, there exists a third, unique, mediating hexagram which transforms either member of the pair into the other under addition or substraction (modulo-difference which is knowingly also the modulo-sum alias XOR of Computerese). E.g.,

001011 Chien Tiệm (H53) 100001 I Di (H27)

+ 100001 I Di (H27) + 110100 Kuei-Mei Quy-muội (H54)

101010 Chi Chi Ký-tế (H63) 010101 Wei Chi lang="ZH-CN" > 未 Vị-tế (H64)

R34 Goldenberg, D.S, The Algebra of the Chouyi and its Philosophical Implications, Journal of Chinese Philosophy 2 (1975), 149-76.

R36 Gorenstein, D., The Enormous Theorem, Sci. Am., Vol. 253, Nr. 6, Dec. 1985.

The GRAY CODE ARRANGEMENT

The Gray code is an encoding of unsigned binaries so that adjacent binaries have a single bit different by 1. Usually it is called binary reflected Gray code for it can be generated as follows. Take the gray code 0, 1. Write it forwards then backwards 0, 1, 1, 0. Then prepend 0s to the first half and 1s to the second half: 00, 01, 11, 10, 10, 11, 01, 00 and so on. Each iteration doubles the number of codes. From the five successive iterations we get the 2, 3, 4, 5, 6-bit Gray code which represent successively the Di-, Tri-, Tetra-, Penta- and Hexagrams.

The following tables are sort of bootstrap to § 2.7 below.

Table 2.5.1 Table 2.5.2 Table 2.5.3 Table 2.5.4

2-bit Gray code 3-bit Gray code 4-bit Gray code 5-bit Gray code

0 00 00 000 0000 0000 00000

1 01 01 001 0001 0001 00001

1 11 11 011 0011 0011 00011

0 10 10 010 0010 0010 00010

10 110 0110 0110 00110

11 111 0111 0111 00111

01 101 0101 0101 00101

00 100 0100 0100 00100

1100 1100 01100

1101 1101 01101

1111 1111 01111

1110 1110 01110

1010 1010 01010

1011 1011 01011

1001 1001 01001

1000 1000 01000

11000

11001

11011

11010

11110

11111

11101

11100

10100

10101

10111

10110

10010

10011

10001

10000

Table 2.3 The 2, 3, 4, 5-bit Gray Code’s Arrangement

Table 2.5.4 Table 2.5.5

5-bit Gray code 6-bit Gray code

00000 000000 Khôn K’un

00001 000001 Bác Po

00011 000011 Quan Kuan

00010 000010 Tỷ Pi

00110 000110 Tụy Ts’ui

00111 000111 Bĩ P’i

00101 000101 Tấn Chin

00100 000100 Dự Yü

01100 001100 Tiểu-quá Hsiao Kuo

01101 001101 Lữ Lü

01111 001111 Độn Tun

01110 001110 Hàm Hsien

01010 001010 Kiển Chien

01011 001011 Tiệm Chien

01001 001001 Cấn Kên

01000 001000 Khiêm Ch’ien

11000 011000 Thăng Shêng

11001 011001 Cổ Ku

11011 011011 Tốn Sun

11010 011010 Tỉnh Ching

11110 011110 Đại-quá Ta Kuo

11111 011111 Cấu Kou

11101 011101 Đỉnh Ting

11100 011100 Hằng Hêng

10100 010100 Giải Hsieh

10101 010101 Vị-tế Wei Chi

10111 010111 Tụng Sung

10110 010110 Khốn K’un

10010 010010 Khảm K’an

10011 010011 Hoán Huan

10001 010001 Mông Mêng

10000 010000 Sư Shih

110000 Lâm Lin

110001 Tổn Sun

110011 Trung-phu Chung Fu

110010 Tiết Chieh

110110 Đoài Tui

110111 Lý Lü

110101 Khuể K’uei

110100 Quy-muội Kuei Mei

111100 Đại-tráng Ta Chuang

111101 Đại-hữu Ta Yu

111111 Kiền Ch’ien

111110 Quyết Kuai

111010 Nhu Hsü

111011 Tiểu-súc Hsiao Ch’u

111001 Đại-súc Ta Ch’u

111000 Thái T’ai

101000 Minh-di Minh I

101001 Bí Pi

101011 Gia-nhân Chia Jên

101010 Ký-tế Chi Chi

101110 Cách Ko

101111 Đồng-nhân T’ung Jên

101101 Ly Li

101100 Phong Fêng

100100 Chấn Chên

100101 Phệ-hạp Shih Ho

100111 Vô-võng Wu Wang

100110 Tùy Sui

100010 Truân Chun

100011 Ích I (I4)

100001 Di I (Yi1)

100000 Phục Fu


Table 2.4 The 5-bit and 6-bit Gray Code’s Arrangement



Người phụ nữ cứu triệu mạng sống từ thảo dược Trung Hoa

Đó là Youyou Tu, người đã chuyển đổi phương pháp chữa trị của người Trung Hoa cổ xưa thành thuốc chống sốt rét mạnh nhất đang có hiện nay, cứu được hàng triệu mạng sống trên khắp toàn cầu, đặc biệt là ở các nước đang phát triển.

Hơn 40 năm trước, giữa những biến động và xáo trộn của Cuộc cách mạng Văn hóa ở Trung Quốc và cả cuộc chiến tranh Việt Nam, hàng trăm nhà khoa học Trung Quốc đã nung nấu nỗ lực đầy tham vọng, đó là tìm được một loại thuốc có thể chế ngự được bệnh sốt rét. Kết quả là họ đã phát hiện ra artemisinin, một hợp chất được tìm thấy trong thảo dược, mà cùng với các dẫn xuất của nó, hiện đang được sử dụng rộng rãi trên khắp thế giới để điều trị sốt rét.


Công trình do các nhà khoa học Trung Quốc nghiên cứu đã chuyển đổi phương pháp chữa trị bệnh sốt rét từ kiến thức truyền thống sang liệu pháp y học hiện đại.


Tháng 9 vừa qua, Giải thưởng Lasker danh giá đã thuộc về Youyou Tu, nhà khoa học 81 tuổi người Trung Quốc, người đã đóng vai trò lớn trong việc phát hiện ra hợp chất trên.


Giáo sư Tu đã dẫn đầu nhóm “chuyển đổi phương pháp chữa trị của người Trung Hoa cổ xưa thành thuốc chống sốt rét mạnh nhất đang có hiện nay”, Quỹ Lasker, có trụ sở tại Mỹ, đánh giá khi công nhận công trình của bà với Giải thưởng nghiên cứu y học lâm sàngLasker-DeBakey. Theo quỹ Lasker, hàng triệu mạng sống khắp toàn cầu, đặc biệt là ở các nước đang phát triển, đã được cứu sống.


Dự án mật 523


Giữa cuộc chiến tranh Việt Nam, một cuộc chiến khốc liệt khác cũng song hành, đó là chiến đấu với Plasmodium falciparum, ký sinh trùng gớm ghiếc nhất gây bệnh sốt rét bởi chúng kháng được cả thuốc chloroquine. Mỹ đã đưa ra một loại thuốc khác để tiêu diệt ký sinh trùng này trong cơ thể, thuốc mefloquine. Còn miền bắc Việt Nam lúc bấy giờ đã nhờ Trung Quốc giúp đỡ chiến đấu với căn bệnh.


Theo tiết lộ trong một bài báo gần đây trên tạp chí Cell (Tế bào) của hai nhà khoa học Louis H. Miller và Xinzhuan Su, thuộc Viện Dị ứng và các bệnh lây nhiễm quốc gia Mỹ, theo chỉ thị của Chủ tịch Mao Trạch Đông và Thủ tướng Chu Ân Lai, chính phủ Trung Quốc đã triệu tập một cuộc họp ở Bắc Kinh vào ngày 23/5/1967 để thảo luận về vấn đề. Một chương trình bí mật, được biết đến với tên gọi Dự án 523, sau đó được phát động, với sự tham gia của hơn 500 nhà khoa học từ khoảng 60 phòng thí nghiệm khác nhau.


Khi dự án được xem là bí mật quân sự, không có liên lạc nào về công trình nghiên cứu với thế giới bên ngoài được phép.


Bắt đầu từ “vườn thảo dược”


Giáo sư Tu sau đó là nhà nghiên cứu chính của Viện dược vật học Trung Hoa thuộc Học viện khoa học Đông y cổ truyền Trung Quốc (CACMS) tại Bắc Kinh.


“Viện của tôi nhanh chóng bắt tay vào dự án và bổ nhiệm tôi đứng đầu một nhóm nghiên cứu bệnh sốt rét”, bà nhớ lại trong bài bình luận được đăng tải gần đây trên tạp chí Y học tự nhiên (Nature Medicine). “Nhóm những nhà nghiên cứu trẻ của chúng tôi bắt đầu nghiên cứu tài liệu liên quan đến các hoạt chất chống lại bệnh sốt rét trong các nguyên liệu thảo dược của Trung Quốc”.


Giáo sư Tu và các đồng nghiệp bắt đầu tìm kiếm sách về thuốc truyền thống của Trung Hoa, rà soát các cuốn sách cổ và cả các cách chữa trị dân gian. Họ phát hiện ra hơn 2000 bài thuốc thảo dược Trung Hoa, trong đó 640 bài có vẻ đầy hứa hẹn. Trong số này, khoảng 380 chiết xuất liên quan đến khoảng 200 thảo dược được chọn để thử nghiệm trên chuột.


Thật không may, “tiến trình không diễn ra suôn sẻ và không có kết quả quan trọng nào xuất hiện một cách dễ dàng”, bà viết trong bài báo.


Thời khắc quyết định đến khi chiết xuất từ một loại cây mà người Trung Quốc gọi là qinghao (cây thanh hao) “cho thấy mức độ ngăn chặn sự phát triển của ký sinh trùng đầy hứa hẹn”.


Nhưng các cuộc thử nghiệm sau đó đều kết thúc với mức độ ngăn chặn thấp hơn nhiều. Giáo sư Tu đi đến kết luận rằng, có thể vấn đề nằm ở việc chiết xuất hoạt chất. Bà đã tìm thấy manh mối trong một cuốn sách cổ Sổ tay kê thuốc cho chữa trị khẩn cấp của Ge Hong, có từ khoảng 1.700 năm trước.


Cuốn sổ tay gợi ý ngâm qinghao vào trong nước, rồi sau đó vắt nước uống. “Câu này đã đưa cho tôi ý tưởng rằng làm nóng trong bước chiết xuất truyền thống mà chúng tôi đã thực hiện có thể đã phá hủy các hoạt chất và rằng việc chiết xuất ở nhiệt độ thấp có thể là cần thiết để bảo quản hoạt chất chống sốt rét”, giáo sư Tu cho hay. Cuối cùng họ đã chuyển sang phương thức chiết xuất ở nhiệt độ thấp hơn.


Mặc dù vậy, theo tiến sỹ Miller và tiến sỹ Su kể trong bài báo của họ, chất chiết xuất được vẫn còn độc, cần phải tinh lọc để loại một phần chất axit không có hoạt chất chống sốt rét. Chiết xuất trung tính còn lại, được dán nhãn là “chiết xuất số 191” có thể loại bỏ hoàn toàn ký sinh trùng khi thử nghiệm trên chuột và khỉ.


Giáo sư Tu đã trình bày công trình tại cuộc họp của Dự án 523 tại Nam Kinh vào tháng 3/1972. Cũng năm này, nhóm của bà xác đinh “một chất không màu, trong như pha lê” là hợp chất hóa học có hiệu quả. Họ gọi đó là Qinghaosu, có nghĩa là “yếu tố cơ bản” trong qinghao. Thế giới sau này gọi đó là artemisinin.


Đến đích đầy chông gai


Sử dụng thông tin giáo sư Tu cung cấp, hai nhóm, một của Viện nghiên cứu thuốc Yunnan và một ở Viện nghiên cứu thuốc truyền thống Sơn Đông, đã có thể tách tinh thể của hợp chất. Các nhà khoa học Trung Quốc xác định được cấu trúc tinh thể 3 chiều của nó vào năm 1975 và công bố dữ liệu 2 năm sau đấy. Bước đầu tiên trong thử nghiệm lâm sàng là xác định độ an toàn của loại thuốc mới. Do không được thực hiện thử nghiệm như vậy trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa, giáo sư Tu và đồng nghiệp đã lấy chiết xuất từ cây để chứng minh thuốc có thể phân phối an toàn.


Khi chiết xuất từ cây được thử nghiệm trên bệnh nhân sốt rét tải tỉnh Hải Nam, kết quả mĩ mãn. Những người được điều trị chiết xuất từ cây khỏe nhanh hơn trong khi những người được điều trị chloroquine không khỏe lên.


Theo tiến sỹ Miller và Su, Guoqiao Li, thuộc Đại học thuốc truyền thống Quảng Châu đã thực hiện thử nghiệm trên bệnh nhân, dùng mẫu artemisinin đã được tinh chế. Những nghiên cứu này lần đầu tiên cho thấy kết hợp liệu pháp dùng artemisinin và thuốc chống sốt rét khác sẽ ngăn bệnh tái phát và tăng đề kháng.


“Artemisinin có tác dụng nhanh chóng trong vòng vài giờ”, họ cho biết. Nhưng lượng artemisinin trong cơ thể giảm nhanh chóng, vì vậy cần phải điều trị cùng với một loại thuốc khác để chữa được bệnh.


Chỉ đến tháng 12/1979, bài báo tiếng Anh đầu tiên về Qinghaosu được đăng tải, thu hút được sự quan tâm lớn của quốc tế lúc bấy giờ. Và đến thời điểm đó, thuốc đã được thử nghiệm thành công trên 2.000 người.


Tháng 10/1981, hội thảo do Liên hợp quốc tài trợ về hóa học trị liệu bệnh sốt rét đã được tổ chức tại Bắc Kinh. Khi được mời lên phát biểu, giáo sư Tu đã trình bày báo cáo về “Những nghiên cứu đối với Qinghaosu”.


Báo cáo của giáo sư Tu không chỉ nói về artemisinin mà còn về một số dẫn xuất thậm chí còn mạnh hơn của nó. Quỹ Lasker nhấn mạnh, trong các nghiên cứu cấu trúc của mình, giáo sư Tu đã thay đổi cấu trúc hóa học của artemisinin để tạo ra hợp chất có tác dụng mạnh gấp 10 lần và giảm được nguy cơ tái phát bệnh. Hợp chất này là cơ sở cho việc sản xuất những loại thuốc chiết xuất artemisinin khác. Những dẫn xuất này cũng có khuynh hướng ở lâu hơn trong cơ thể và là trung tâm của các liệu pháp ngày nay.

Trong bài báo của mình trên tạp chí Nature Medicine, giáo sư Tu nhấn mạnh “tính hiệu quả của artemisinin và các dẫn xuất của nó trong điều trị hàng ngàn bệnh nhân bị sốt rét ở Trung Quốc đã thu hút được sự quan tâm trên khắp thế giới vào những năm 1980”.


Công trình do các nhà khoa học Trung Quốc nghiên cứu đã làm thay đổi cách chữa trị bệnh sốt rét. Theo tổ chức Y tế Thế giới, số khóa học về liệu pháp kết hợp dựa trên artemisinin tăng mạnh từ 11,2 triệu năm 2005 lên 76 triệu vào năm sau đó và đạt 158 triệu cho tới năm 2009.


“Giáo sư Tu đã là người tiên phong trong cách tiếp cận mới chữa trị bệnh sốt rét, chữa trị cho hàng trăm triệu người và còn nhiều hơn thế nữa”, Quỹ Lasker nhận định. “Bằng cách áp dụng những kỹ thuật hiện đại cùng di sản của những thầy thuốc Trung Hoa để lại trong suốt 5.000 năm, bà đã chuyển được những tinh hoa của nó vào thế kỷ 21”.






http://dantri.com.vn/c36/s36-524596/nguoi-phu-nu-cuu-trieu-mang-song-tu-thao-duoc-trung-hoa.htm