Tứ hóa là then chốt toàn bộ biến hóa của tinh diệu.

Đặc biệt lưu niên, đại vận, đều có riêng lưu hóa diệu của mình, với nguyên cục hóa diệu hỗ tương giao hội, càng khiến tính chất biến thành phức tạp, cũng do vậy, cần thiết đễ suy đoán cụ thể hơn.

Đại khái ý nghĩa

Hóa Lộc : là tài lộc;
hóa Quyền : là quyền thế;
hóa Khoa : là danh dự;
hóa Kị : là chướng ngại.
Nhưng các tinh diệu biến hóa vẫn còn nhiều ý nghĩa độc đáo, một trong những ý nghĩa độc đáo hơn, thường là căn cứ để suy đoán.

Lúc suy đoán mệnh cục, chỉ có tứ hóa của năm sinh, vì vậy
đơn giản, dễ quan sát. Trọng điểm suy đoán chỉ phải nhìn bổn thân tứ hóa có hội hiệp hay không, hội đủ ở cung độ nào, liền có thể biết đại lược. Lúc suy đoán đại hạn, chỉ có tứ hóa đại hạn và tứ hóa năm sinh, cũng không phức tạp, xem chỗ hội hiệp cũng không đến nỗi không thể hiểu được. Nhưng lúc suy đoán lưu niên, 3 & 4 tổ tứ hóa, có thể đầy khắp cung độ đều có hóa diệu chiếu hội hoặc đồng độ, thường khiến người hoa mắt.

Chổ cấu thành của Sanh niên tứ hóa : thuộc bản chất của
các cung. hình thành của Đại vận cùng lưu niên : thuộc hoàn cảnh của các thời kì, do vậy tứ hóa sanh niên đối với hoàn cảnh ảnh hưởng không lớn. điểm này nên hiểu rõ lí của nó. một thí dụ để hiễu rõ Mệnh cung nguyên cục là Đồng Âm tại ngọ, người tuổi bính, (Đồng hóa Lộc). đến đại hạn bính thân cung, mệnh cung đại hạn là Nhật Cự :
• hội đại vận sự nghiệp cung Đồng Âm tá tinh, Đồng lại hóa Lộc. ắt lúc này ý nghĩa của Đồng hóa Lộc càng lớn, liền có “bạch thủ hưng gia”, ở trong vận hạn này có ý vị giàu sang. suy đoán như vậy, kỳ thật vẫn lấy Đồng hóa Lộc của bính thân hạn làm chủ, sanh niên Đồng hóa Lộc có tác dụng gia
cường tính chất.

MỆNH
ÂM ĐỒNG hóa Lộchóa Lộc đv ; NHẬT CỰ MỆNH đại vận

TÀI đại vận
Tuổi BÍNH Đại vận Bính Thân QUAN LƯƠNG CƠ hóa Quyền hóa Quyền đv

QUAN đại vận


Sự nghiệp cung Nguyên cục là Cơ Lương ở Tuất (Cơ hóa

Quyền). Kinh hành đến Đồng Âm của đại hạn Sự nghiệp cung
ở Tí, [tức là Cơ Lương hóa Quyền đi đến Đồng Âm song hóa
Lộc], do đó chỉ nên ở địa vị kế hoạch, tinh diệu tuy đẹp
cũng không nên một mình lo toan.

Tài bạch cung đại vận của cũng là Cơ Lương, tại vận hạn

Cơ cũng hóa Quyền, biết thêm tài lộc do kế hoạch, sách
hoạch, thiết kế mà có, hơn nữa tài nguyên ổn định.

thêm một thí dụ

Mệnh "Thái-dương Thái-âm” tại mùi, người tuổi canh,
(Thái-dương hóa Lộc).
đến đại hạn ất dậu,
mệnh đại hạn cung "Cơ Cự" mà Cơ hóa Lộc,
- hội sửu cung vô chính diệu, mượn Thái-dương Thái-âm mà
Âm hóa Kị.
Lúc này, Cơ hóa Lộc xung khởi Nhật hóa Lộc, liền đưa đến
Cơ hóa Lộc có mang theo sắc thái "lợi ích phục vụ công
cộng”. Gia thêm Âm hóa Kị bất lợi kinh doanh riêng, vì
thế lúc này chỉ nên lợi dụng kế hoạch làm công ti để kiếm
tiền, cá nhân ắt không nên đầu tư.

*** Nguyên cục hóa Lộc, tại đại vận hoặc lưu niên hóa Kị

: là "nguyên lai sao hóa Lộc biến thành Kị tinh” (như
nguyên lai Vũ hóa Lộc biến thành Kị tinh). vì thế có thể
do tiền tài mà vướng họa, hoặc nguyên lai lực sanh tài
lộc đại giảm.
*** Nguyên cục hóa Kị, tại đại vận hoặc lưu niên hóa Lộc
: là "nguyên lai sao hóa Kị biến thành Lộc tinh (như
nguyên lai Cự hóa Kị biến thành Lộc tinh). vì vậy nhân tố
nguyên lai bất lợi, tại thời kì này có thể chuyển hóa
thành nhân tố có lợi, theo mà thu hoạch tài phú.

Cử hai thí dụ trên có thể minh bạch ý nghĩa biến hóa của

hóa tinh giao hội.

3 nhận xét:

  1. ------------------------
    Những gì do đặc tính sao hiển thị trên lá số chỉ là quan niệm của chủ nhân lá số về sự việc đó, hoặc giả nói là “ý thức hình thái”, không thể dựa vào mà định cát hung. Nếu muốn đoán cát hung thì phải du nhập “điều kiện” mới được. Thí dụ: Muốn đoán liên hệ tình cảm giữa chủ lá số với anh chị em thì phải biết năm sinh của các anh chị em, du nhập chúng vào lá số. Đó gọi là phép “Thái Tuế nhập quái”.

    Như chị của quý vị sinh năm 57 (dgc: Đây ám chỉ năm Trung Hoa Dân Quốc thứ 57, tức năm 1968) thì năm là Mậu Thân (dgc: Nguyên bản đánh sai thành Mậu Canh, chữ Canh ở đây vô nghĩa) thì dùng can Mậu để định tứ Hóa: Mậu Tham Nguyệt Hữu Cơ. Lúc ấy xem Tham hóa Lộc có cư hoặc tam hợp cung mệnh của quý vị không, có thì chị của quý vị chỉ cho quý vị mà không đòi hoàn lại, hoặc nói là chị quý vị đối xử tốt với quý vị. Đương nhiên nếu Lộc của chị quý vị khiến mệnh của quý vị được song Lộc giáp thì hiệu quả cũng vậy (dgc: Nhưng theo ý người dịch thì Lộc nhập quái giúp tạo thành song Lộc giáp mệnh có nghĩa là liên hệ tốt đẹp có tính ẩn, ít được người ngoài biết hơn so với trường hợp cùng cung hoặc tam hợp mệnh). Mặt khác, nếu hóa Kị của chị quý vị nhập cung mệnh của quý vị thì có nghĩa hai bên có khó liên hệ tốt, hoặc chị quý vị thiên sinh đã phòng ngờ quý vị. Còn về cá tính của chị quý vị thì lấy cung Thân làm chủ, tham khảo cung Thân và tam phương tứ chính để định cá tính, lúc ấy cần thêm tác dụng tứ hóa của Mậu Tham Nguyệt Hữu Cơ, hợp với tứ Hóa đã có sẵn trong lá số cùng tham khảo.

    Tình huống giữa quý vị và bà chị sinh năm 57 (dgc: tức 1968) thì luận như sau: Thứ nhất, nếu cung Thân ở tam phương cung mệnh của chủ lá số thì cá tính của bà chị và chủ lá số tương cận, tương đối dễ hiểu nhau – Đây bởi vì xuất hiện ở tam phương thì các tinh đẩu phần lớn tương tự - chú ý tính chất tinh đẩu đã đề cập trước đây. Thứ hai, xét tác dụng của tứ Hóa Mậu Tham Nguyệt Hữu Cơ trên cung anh chị em (dgc: tức cung huynh đệ), nếu hóa Lộc có tác dụng mạnh hoặc hội chiếu thì có nghĩa hai bên tình cảm không tệ. Hóa Quyền biểu thị giữa anh chị em có khả năng chi phối mạnh mẽ. Nếu hóa Kị dẫn động (dgc: Nghĩa là hóa Kị trong tam phương tứ chính hoặc tạo thành cảnh song Kị giáp) thì có nghĩa hai bên cảm tình không thuận hoặc có chuyện bất lợi khác.

    Phép “Thái Tuế nhập quái”. Đương nhiên Thái Tuế nhập quái cũng có thể dùng để đoán đại hạn và lưu niên, nhưng có hạn chế, ngàn vạn nhớ kỹ, không thể toàn diện thổi phồng. Sự thật là huynh đệ xem như thế, cha mẹ cũng xem như thế, thêm can năm sinh của cha mẹ vào để quyết định (dgc: Không đề rõ quyết định gì, ý hẳn là quyết định liên hệ giữa cha mẹ và chủ nhân lá số), xem địa chi của cha mẹ để định cá tính của họ. Cảm tình nam nữ cũng đoán như vậy, thầy cô hoặc giảng viên cũng như vậy, bạn học bạn bè cũng như vậy. Cái phức tạp của Thái Tuế nhập quái là quan hệ hỗ động giữa hai cung khác nhau – Đó là chỗ tinh yếu của của phép Thái Tuế nhập quái, trước đây đã bàn một chút, sau này sẽ phân tích kỹ hơn.

    ===========

    Trả lờiXóa
  2. --------------------
    LƯU NIÊN

    Khi thảo luận bộ phận này đầu tiên cần thảo luận vấn đề khác biệt giữa các học phái. Về việc xem vận khí mỗi năm, nói chung có ba cách: Cách thứ nhất coi lưu niên là chủ, như năm nay là năm Quý Dậu tất cung mệnh của năm ở Dậu, rồi thêm tứ Hóa của can Quý vào lá số mà luận xét. Cách thứ hai là phái tiểu hạn. Phái này dùng tiểu hạn để xem số, như năm nay Bính Ngọ là năm 28 tuổi, tìm cung ứng với tiểu hạn năm 28 tuổi coi là cung mệnh, lấy tứ Hóa của cung mệnh mà xem vận khí của năm nay (dgc: Ý nói là cung tiểu hạn ở đâu thì dùng can của cung đó? Nếu thế là một cách xem hơi lạ và có vấn đề, vì can của các cung đã cố định, thành thử can chi đều lập lại mỗi 12 năm. Thiết nghĩ hợp lý hơn là vẫn xử dụng can của lưu niên mặc dù xem cung tiểu hạn là cung mệnh tạm thời). Cách thứ ba là tham chiếu cả hai, lưu niên xem biến hóa của hoàn cảnh, tiểu hạn xem biến hóa của tâm thái.

    Hôm nay theo sự hiểu biết của người viết (dgc: Tức người viết bài này, không phải ông Tử Vân, không phải dịch giả) thì phái lưu niên là tông phái lớn chính thống, các học giả về sau chỉ cần dùng phép lưu niên là có thể chính xác không sai, bất tất thêm cách nào khác nữa (dgc: Tức là theo ý tác giả bài này thì chỉ cần dụng phép lưu niên thôi, không dùng tiểu hạn).

    Cách xem lưu niên, kỳ thật so với cách xem đại hạn chẳng mấy khác. Bắt đầu với các sao trong cung lưu niên mệnh (dgc: Tức là cung an lưu Thái Tuế), rồi xem tứ hóa (tứ Hóa theo thiên can của lưu niên, như năm nay Quý Dậu thì an theo Phá Cự Âm Tham), xem tứ Hóa xung kích cung lưu niên hiệu quả ra sao, rồi lại xem hiệu ứng xung kích của tứ Hóa trên cung đại hạn hoặc bản mệnh, lại xem thêm cung vị nào bị tứ Hóa dẫn động.

    Hệ thống Tử Vi đến lưu niên tổng cộng có ba tầng kết cấu, tầng một là bộ phận lá số nguyên thủy và tứ hóa nguyên thủy (dgc: Câu này nguyên tác cách viết phức tạp nên chỉ dịch ý); tầng hai bộ phận lá số đại hạn và tứ Hóa ứng với can cung đại hạn; tầng ba là bộ phận lá số lưu niên và lưu tứ Hóa năm xem số (như năm dân quốc 82 là năm Quý Dậu thì lấy tứ Hóa theo can Quý). Ba tầng bộ phận này, cơ bản tầng một lá số nguyên thủy, nhưng thực tế là những gì hiện ra trong lá số lưu niên. Đại hạn thì đóng vai trò truyền thừa; tức lá số nguyên thủy là căn bản, là xương cốt, lá số đại hạn là cơ thịt, thần kinh, lá số lưu niên biểu diện da ngoài và ngũ quan. Nhưng đó chỉ là những sự việc hết sức chung chung thôi (dgc: nguyên văn “phổ biến hóa”, chỉ dịch ý thôi), đối với những sự việc đặc thù tất phải du nhập dữ liệu mới luận được là cát hoặc hung.

    Trả lờiXóa
  3. --------------------
    “Cung trọng điểm” là phương pháp định vị trong Tử Vi. Chuyện đó ứng cung vị nào trong lá số? Chẳng hạn: Nói chuyện làm việc, có tiên thiên bản mệnh sự nghiệp (dgc: tức cung quan lộc nguyên thủy), đại hạn sự nghiệp, lưu niên sự nghiệp thành kết cấu 3 tầng. Một người chơi cổ phiếu kiếm tiền, rốt ráo phải xem bản mệnh phúc đức, đại hạn phúc đức, hay lưu niên phúc đức? (dgc: Sở dĩ nhắc đến ba cung phúc ở đây là vì ông Tử Vân cho rằng muốn xem cổ phiếu được thua ra sao phải xem cung phúc là chính, mà không phải là cung tài bạch). Quy tắc như thế này: Cung nào tình hình bị dẫn động kịch liệt nhất, cung đó là cung trọng điểm. (dgc: Đa số trường hợp cung nhiều Lộc Kỵ hội họp nhất là cung trọng điểm).

    Câu ở trên ý chỉ: Có tác dụng dẫn động của tứ Hóa và cách cục hay không. Thí dụ ba đời Kị dẫn động thì mạnh hơn hai đời kị (ba đời kị chỉ bản mệnh Kị, đại hạn Kị và lưu niên Kị, hai đời Kị thì chỉ bản mệnh và đại hạn hoặc lưu niên Kị, hay là đại hạn và lưu niên Kị); cho nên song Kị giáp Kị thì thê thảm hơn so với song Kị giáp; song Lộc giáp Lộc thì mạnh hơn so với song Lộc hội. Cung nào có song Lộc giáp Lộc thì tám thành là cung trọng điểm, cùng lý, xem cầu đầu cơ cổ phiếu (dgc: Phân biệt với đầu tư, đầu cơ nghĩa là muốn đánh nhanh rút gọn, chơi ngắn hạn thôi) đến khi song Kị dẫn động cung phúc thì phải coi chừng bị kẹt. Vấn đề định cung vị này phải dựa theo tác dụng hỗ tương giữa đặc tính tinh đẩu cùng tứ Hóa vởi cung vị mà quyết định. Ngàn vạn cẩn thận, bẳng không canh chỗ này ra chỗ nọ thì chẳng hay lắm. (dgc: Đây dùng thành ngữ, dịch sát nghĩa là “bằng không chẳng vỗ trúng mông ngựa mà vỗ nhằm chân ngựa thì chẳng hay lắm” ấy bởi vì vỗ trúng mông ngựa thì ngựa chạy theo ý mình, vỗ nhằm chân ngựa thì bị ngựa đá.)

    Ngoài ra quan niệm liên tục cũng ứng dụng trong lưu niên. Sau khi có phép định vị, tìm ra cung trọng điểm rồi, tiếp là luận những biến đổi (dgc: Nguyên tác “sự tiêu trưởng” hơi tối nghĩa) của cung trọng điểm thì dùng tứ Hóa (có khi không chỉ dùng tứ Hóa, mà lưu niên Lộc Tồn và Kình Đà đều cần suy xét) mà luận ra sự biểu hiện. Chẳng hạn hôm nay đi xa đến đất ngoài làm việc, định chỗ công việc ở tiên thiên di và lưu quan lộc, đến năm sau, xem tác dụng tứ Hóa của năm Giáp Tuất đối với cung cũ, như quả tam hợp Khoa Quyền Lộc thêm song Lộc giáp năm sau tác dụng là có cơ hội thăng tiến, lại có cơ hội tăng lương. Các năm khác cũng y thứ tự mà đoán. Nếu là việc làm lâu dài, thì xét tác dụng của đại hạn tứ Hóa và tứ hóa của đại hạn sau, từ đó có thể quyết định quá trình và tính được thua của công việc.

    Sau hết, một khái niệm tương đối kỳ quái gọi là “duyên khởi duyên diệt” là phương pháp được dùng để định khi một sự kiện phát sinh và kết thúc. Phương pháp này đòi hỏi người xử dụng vận dụng tứ Hóa rất thuần thục, quý học giả có thể tham khảo các tác phẩm lớn của ông Tử Vân như “Tử Vi luận cầu tài” v.v... Đương nhiên có lúc chẳng phải chỉ tác dụng của tứ Hóa mà tác dụng tam hợp cũng có hiệu quả. Tóm lại, đây là một biến thể của kỹ thuật vận dụng tứ Hóa và cung vị.

    Trả lờiXóa